Saturday, June 18, 2016

The Battle Of An Loc by James H. Willbanks

Main Selection of Military Book Club
Army Historical Society Book of Distinction finalist
With the knowledge born of firsthand experience, James H. Willbanks tells the story of the 60-day siege of An Loc. In 1972, late in the Vietnam War, a small group of South Vietnamese held off three North Vietnamese divisions and helped prevent a direct attack on Saigon. The battle can be considered one of the major events during the gradual American exit from Vietnam. An advisor to the South Vietnamese during the battle, Willbanks places the battle in the context of the shifting role of the American forces and a policy decision to shift more of the burden of fighting the war onto the Vietnamese troops. He presents an overview of the 1972 North Vietnamese Easter Offensive, a plan to press forward the attack on U.S. and ARVN positions throughout the country, including Binh Long province and Saigon. The North Vietnamese hoped to strike a decisive blow at a time when most American troops were being withdrawn. The heart of Willbanks’s account concentrates on the fighting in Binh Long province, Saigon, and the siege of An Loc. It concludes with a discussion of the Paris peace talks, the significance of the fighting at An Loc, and the eventual fall of South Vietnam.
 James H. Willbanks is General of the Army George C. Marshall Chair of Military History and director of the department of military history at the US Army Command and General Staff College in Leavenworth, Kansas. His books include A Raid Too Far: Operation Lam Son 719 and Vietnamization in Laos, The Tet Offensive: A Concise History, and Abandoning Vietnam.
 "The Battle of An Loc could only be written effectively by a participant, and Willbanks was present as an advisor to an ARVN unit. But this is not just an eyewitness account. Utilizing newly discovered archival evidence and recently translated North Vietnamese after-action reports, Willbanks has reconstructed . . . the nearly three-month long siege . . . to answer the question that has plagued military historians since the war ended: was the Army of the Republic of Vietnam an effective fighting force? . . . A fine book with rich, vibrant descriptions of combat, weapons, and command decisions. Willbanks writes from an insider's perspective [with] the discipline of a historian who knows what questions to ask." —H-Net Reviews
"An informative and consuming account. It is an engrossing read . . . for those who want to understand the battle of An Loc itself, the state of the war in 1972, and the sacrifices of those who advised the ARVN during the war's final years. A must-read for those who think the Vietnam War was only about defeating a jungle insurgency." —HistoryNet
List of Figures
List of Maps
List of Photos
Preface
Acknowledgments
Introduction
List of Abbreviations
1. Prelude to Battle
2. The Nguyen Hue Campaign
3. The Area of Operations
4. The Battle of Loc Ninh
5. The Opening Battle for An Loc
6. Second Attack on An Loc
7. NVA High Tide
8. The Fight for Highway 13
9. Breaking the Siege
10. Evaluating the Battle of An Loc
11. Aftermath
Epilogue
Appendix 1. Order of Battle
Appendix 2. Presidential Unit Citation, 229th Aviation Battalion
Appendix 3. Presidential Unit Citation, Advisory Team 70
Notes
Bibliography
Index
 

Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân: Đại Tá HỒ NGỌC CẨN (Phạm Phong Dinh)

 Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân
Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn
Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Chương Thiện

“Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán xét đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo cộng sản. Việt Nam muôn năm.” – Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn (24-3-1938 14-8-1975)
Tên tuổi của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã bắt đầu lừng lẫy từ khi ông còn là một sĩ quan cấp Úy phục vụ trong binh chủng Mũ Nâu Biệt Động Quân ở Miền Tây. Các cấp chỉ huy Biệt Động Quân trong thời điểm đầu những năm 1960 đã để ý nhiều đến tân Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn, Trung Đội Trưởng BĐQ, về những hành động quả cảm đến phi thường trong những cuộc giao tranh. Người Trung Đội Trưởng trẻ mới có 22 tuổi đời đã đứng xõng lưng dẫn quân Mũ Nâu xung phong lên đánh những trận long trời trên chiến trường đồng bằng sông Cửu Long. Những chiếc lon mới nở nhanh theo cùng với những chiến thắng. Chỉ trong vòng bốn năm, Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn đã được vinh thăng lên đến cấp bậc Đại Úy và được điều về làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 33 của Sư Đoàn 21 Bộ Binh “Tia Sét Miền Tây”. Lúc đó trên lãnh thổ Vùng 4 Chiến Thuật đã nổi lên những khuôn mặt chiến binh dũng mãnh mà đã đƯợc ca tụng là những con mãnh hổ miền Tây, Đại Úy Hồ Ngọc Cẩn có vinh dự nằm trong số năm vị này. Những vị còn lại gồm những tên tuổi như sau:
– Thiếu Tá Nguyễn Văn Huy, Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân. – Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân. – Thiếu Tá Lê Văn Dần, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân. – Thiếu Tá Lê Văn Hưng, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 31, SĐ21BB. – Thiếu Tá Vương Văn Trổ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 33, SĐ21BB.
Thật ra bản danh sách này chỉ có tính cách ước lệ và tượng trưng, đâu phải một Miền Tây rộng bát ngát mà chỉ có vỏn vẹn có năm người hùng. Mỗi người lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa xứng đáng được vinh danh là những anh hùng, vì những đóng góp máu xương quá lớn cho tổ quốc.
Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24.3.1938 tại xã Vĩnh Thạnh Vân, Rạch Giá. Thân phụ của ông là một hạ sĩ quan phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam (danh xưng của quân đội trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa, dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm). Đại Tá Cẩn không may sinh ra và lớn lên trong thời buổi chiến tranh, nên khi lên bảy tuổi ông sắp sửa cắp sách đến trường, thì chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, việc học của ông bị gián đoạn. Mãi hai năm sau, tức vào năm 1947 ông mới được đi học lại, sau khi tình hình ở các thành phố trở lại yên tĩnh, quân Việt Minh rút về các chiến khu, quân Pháp chiếm đóng các thành phố. Cậu bé Cẩn học muộn đến những hai năm, khi ông học tiểu học được bốn năm thì thân sinh của cậu quyết định xin cho cậu nhập học Trường Thiếu Sinh Quân Gia Định. Có lẽ vị thân sinh của người đã nhìn thấy được những dấu hiệu, những nảy nở của tinh thần và ý hướng, mà sau này sẽ hướng người vào con đường binh nghiệp, sẽ làm nên những công nghiệp lớn có ích lợi cho đất nước
Cuộc đời đèn sách trễ nải của chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn, lúc này đã 17 tuổi, đã ngáng bước đi lên về mặt văn hóa. Theo học quy của Trường Thiếu Sinh Quân, một học sinh ở độ tuổi 17 chưa học xong Đệ Ngũ, sẽ được gửi đi học chuyên môn. Vì vậy chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn được trường gửi lên Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức học khóa chuyên môn CC1 Vũ Khí. Trong lớp văn hóa hồi ở Trường TSQ, ông chỉ ở mức trung bình, nhưng sau ba tháng học ở Thủ Đức, chàng trai trẻ lại đậu hạng ưu. Ông được cho học thêm khóa chuyên môn vũ khí bậc nhì CC2. Sau khóa học này ông quyết định đăng vào phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, với cấp bậc Binh Nhì. Theo quy chế dành cho các Thiếu Sinh Quân, thì ba tháng sau, Binh Nhì Hồ Ngọc Cẩn sẽ được thăng lên Hạ Sĩ, ba tháng kế tiếp được lên Hạ Sĩ Nhất và ba tháng sau nữa được thăng Trung Sĩ. Trong vòng chín tháng kế tiếp, với khả năng ưu hạng về môn vũ khí, Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được chọn làm huấn luyện viên vũ khí cho trường.
Cuộc đời làm huấn luyện của ông những tưởng êm đềm trôi và tài năng quân sự của người sẽ bị mai một trong một ngôi trường khiêm tốn. Nhưng định mệnh đã dành cho người anh hùng một vị trí xứng đáng trong quân đội và những cơ hội thi thố tài năng, mà sau này được mọi người truyền tụng lại như là những huyền thoại, để phục vụ và bảo vệ tổ quốc. Tình hình quân sự ngày càng nghiêm trọng cho một quốc gia non trẻ và một quân đội còn tập tễnh kinh nghiệm chiến đấu, sĩ quan chỉ huy thiếu hụt. Bộ Quốc Phòng quyết định mở các khóa Sĩ Quan Đặc Biệt bắt đầu từ năm 1962 để cung cấp thêm sĩ quan có khả năng cho chiến trường và nâng đỡ những Hạ Sĩ Quan có ước vọng thăng tiến. Một may mắn lớn cho Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn, mà cũng là may mắn cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, một cựu Thiếu Sinh Quân, đã nâng đỡ cho các đàn em TSQ. Những Thiếu Sinh Quân không hội đủ năm năm quân vụ và có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp vẫn được cho đi học Khóa Sĩ Quan Đặc Biệt. Hơn nữa, dường như Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Đại Tướng Lê Văn Tỵ có mật lệnh, các tân Chuẩn Úy xuất thân từ Thiếu Sinh Quân đều được đưa về các binh chủng thiện chiến hay đặc biệt như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Thiết Giáp, Biệt Động Quân, Quân Báo, An Ninh Quân Đội, Lực Lượng Đặc Biệt. Tổng Thống Diệm và Đại Tướng Tỵ cũng không quên gửi những Thiếu Sinh Quân tốt nghiệp Tú Tài vào học các Trường Cao Đẳng Sư Phạm và Y Khoa để có nhân tài phục vụ xã hội và huấn luyện lại cho những thế hệ tuổi trẻ kế tiếp. Đặc biệt nhiều Thiếu Sinh Quân cũng được cho vào học Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt để làm nền tảng cho cái xương sống chỉ huy chuyên nghiệp trong hệ thống quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được cho theo học Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch tại Trường Hạ Sĩ Quan QLVNCH, Đồng Đế, Nha Trang. Các tân Chuẩn Úy Đặc Biệt, trong đó có Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn tung cánh đại bàng bay đi khắp bốn phương và sau này đã trở thành những sĩ quan tài giỏi nhất của quân lực, lưu danh quân sử. Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn được thuyên chuyển về Biệt Động Quân Vùng 4 Chiến Thuật Miền Tây, sau một khóa học Rừng Núi Sình Lầy của binh chủng Mũ Nâu. Lúc đó các đại đội BĐQ biệt lập theo lệnh của TT Diệm, đã được cải tổ và sát nhập thành các tiểu đoàn. Khu 42 Chiến Thuật gồm lãnh thổ các tỉnh Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên, Bạc Liêu và An Xuyên, có hai tiểu đoàn BĐQ, mà lại là hai tiểu đoàn lừng lẫy nhất của binh chủng. Đó là Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân “Cọp Ba Đầu Rằn”, và Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân “Cọp Xám”. Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn nhận sự vụ lệnh trình diện Tiểu Đoàn 42 BĐQ và làm Trung Đội Trưởng. Khả năng quân sự thiên bẩm, tài chỉ huy và sự chiến đấu hết sức gan dạ của Chuẩn Úy Cẩn, mà đã đem nhiều chiến thắng vang dội về cho TĐ42BĐQ, được thăng cấp đặc cách nhiều lần tại mặt trận, đã nhanh chóng xác nhận Trung Úy tân thăng
Hồ Ngọc Cẩn có khả năng chỉ huy tiểu đoàn. Trung Úy Cẩn được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 42BĐQ, đặt dưới quyền chỉ huy của một chiến binh lừng lẫy và nhiều huyền thoại không kém gì Trung Úy Hồ Ngọc Cẩn. Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, xuất thân từ Sư Đoàn 21 Bộ Binh, với tác phong chiến đấu dũng cảm làm quân giặc kiêng sợ và thuộc cấp kính phục. Cung cách đánh giặc như vũ bão của Trung Úy Cẩn còn được nhân lên thập bội, khi lời yêu cầu của ông lên cấp chỉ huy xin cho các chiến binh gốc Thiếu Sinh Quân được về chiến đấu chung với ông. Lời yêu cầu này được thỏa mãn một phần, nhưng cũng đủ để cho Trung Úy Cẩn có thêm được sức mạnh cần thiết. Có lần ông tâm sự với một người bạn lý do này: “Một là để dễ sai. Tất cả bọn cựu Thiếu Sinh Quân này đều ra trường sau tôi. Chúng là đàn em, dù tôi không phải là cấp trên của chúng, mà chúng nó lộn xộn, tôi vẫn hèo vào đít chúng nó được. Nay tôi muốn chúng nó về với tôi, để tôi có thể dạy dỗ chúng nó những gì mà quân trường không dạy. Hai là truyền thống của tôi khi ra trận là chết thì chết chứ không lùi. Vì vậy cần phải có một số người giống mình, thì đánh nhau mới đã. Bọn cựu Thiếu Sinh Quân đều như tôi”.
Một câu chuyện dũng cảm và cảm động khác kể về Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 15 Bộ Binh tại mặt trận An Lộc năm 1972. Trong khi quân của Trung Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh bị pháo địch nã hàng ngàn quả ghìm đầu xuống trong những hố cá nhân bên đường Quốc Lộ 13 gần thị xã An Lộc, thì binh sĩ trung đoàn ngạc nhiên lẫn cảm kích khi thấy vị Trung Đoàn Trưởng của họ dẫn vài người lính cũng quả cảm như vị chỉ huy điềm tĩnh đi thẳng lưng dưới cơn hỏa pháo cường kích như bão lửa của Sư Đoàn 7 Bắc Việt từ công sự này sang hố chiến đấu kia thăm hỏi chiến sĩ, an ủi các chiến thương và khích lệ tinh thần binh sĩ. Chiến binh Hồ Ngọc Cẩn coi thường cái chết, mà dường như cái chết cũng sợ hãi và tránh xa con người kiệt xuất ấy. Định mệnh sẽ dành cho người một cái chết cao cả nhất, ít nhất cũng chưa phải là trong mùa hè đỏ lửa của năm 1972. Dường như giữa Trung Tá Cẩn và cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí có rất nhiều chất hào hùng quả cảm giống như nhau. Đại Tướng Đỗ Cao Trí thường nói với các phóng viên ngoại quốc đi trong cánh quân của người, khi họ tỏ lòng khâm phục người chiến binh Nhảy Dù ấy đã đứng giơ cao khẩu súng Browning thúc giục binh sĩ tiến lên, giữa những làn đạn đan chéo như vải trấu của địch quân: “Nếu đạn không trúng mình thì mình được tiếng anh hùng, mà nếu đạn có trúng thì mình cũng được tiếng anh hùng luôn”!
Các loại pháo địch từ 122ly đến 130ly, chưa kể đến những loại cối 81ly và các loại súng đại bác không giật 75 ly và 90 ly dội hàng chục ngàn quả lên vị trí của quân ta. Quân Trung Đoàn 15 đánh lên An Lộc dọc theo QL13 từ Tân Khai tiến rất chậm vì đạn pháo giặc. Để tránh bị thiệt hại nặng, Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn đã lệnh cho binh sĩ mỗi người đào một hố nhỏ như những cái “miệng ve” để ẩn trú. Nếu pháo dội trúng cái “miệng ve” nào, thì chỉ một chiến sĩ ở chỗ đó bị tử thương mà thôi. Trong một khoảng chiến tuyến mỗi chiều bề dài 300 thước, có hàng mấy trăm cái hố nhỏ, mấy ngàn quả pháo của cộng quân dội xuống, tính trung bình mỗi mét vuông lãnh vài trái. Nếu tính theo lý thuyết toán học thì mỗi chiến sĩ Trung Đoàn “ăn” từ hai trái lấy lên, và như vậy toàn bộ trung đoàn coi như chết hết. Nhưng thật kỳ diệu, chiến thuật “cò ỉa miệng ve” của quân ta lại cứu sống hàng ngàn sinh mạng chiến sĩ. Dứt cơn pháo địch, chiến sĩ ta nhú đầu lên điểm danh quân số, thì thấy rằng, nhờ ơn trời, rất ít chiến thương. Tuy nhiên khi quân Trung Đoàn 15 tiến quân trên QL13 và giao chiến với quân địch, thì con số thương vong lên rất cao. Có nhiều đại đội trên 100 người, khi tàn cuộc chiến trở về Quân Khu IV chỉ còn khoảng ba chục chiến sĩ.
Ở phía Nam Tân Khai, Sư Đoàn 21 Bộ Binh cũng bị thiệt hại nặng vì pháo, nhiều sĩ quan cao cấp bị tử thương. Trung Đoàn Trưởng của một trung đoàn là Trung Tá Nguyễn Viết Cần và một vị Trung Tá Trung Đoàn Phó của một trung đoàn khác hy sinh vì pháo địch quá ác liệt. Trung Tá Nguyễn Viết Cần chính là bào đệ của cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh. Ông xuất thân từ binh chủng Mũ Đỏ Nhảy Dù, con đường binh nghiệp đang có nhiều triển vọng đi lên thì ông bị liên can trong vụ thuộc cấp ngộ sát hai Quân Cảnh Mỹ tại Sài Gòn. Thiếu Tá Cần bị thuyên chuyển về SĐ 21 BB, ít lâu sau ông thăng Trung Tá và nắm trung đoàn. Cuối cùng thì dòng họ Nguyễn Viết đã cống hiến cho đất nước đến hai người con ưu tú. Theo lời kể lại của Đại Úy Tiến, một vị Tiểu Đoàn Phó của Trung Đoàn 15 Bộ Binh lên An Lộc tham chiến, thì Trung Tá Cẩn đã lệnh cho ông phải đứng lên điều động binh sĩ giữa lúc đạn pháo giặc dội như bão xuống các vị trí Trung Đoàn. Tất cả các vị chỉ huy cao cấp của Trung Đoàn đều phải nêu gương dũng cảm cho thuộc cấp và chiến sĩ, để cùng xông lên giải cứu An Lộc. Vì những chiến công ngoài chiến trường, tính đến năm 1970 thì Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn là chiến sĩ được tưởng thưởng nhiều huy chương nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với 78 chiếc của gồm 1 Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, 25 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, 45 Anh Dũng Bội Tinh với các loại Ngôi Sao, 3 Chiến Thương Bội Tinh và 4 Huy Chương Hoa Kỳ.
Sau khi trở về từ An Lộc, Trung Đoàn 15 Bộ Binh còn tăng viện cho các trung đoàn bạn và Sư Đoàn 7 Bộ Binh đánh những trận long trời ở miền biên giới Việt-Miên, các tỉnh bờ Bắc sông Tiền Giang. Những tổn thất và vết thương còn chưa hồi phục từ chiến trường Miền Đông, lại vỡ toác ra từng mảnh lớn khác. Nhưng có sá gì chuyện tử sinh, làm thân chiến sĩ thì người lính của chúng ta chỉ biết tận lực hiến dâng xương máu cho nền tự do của tổ quốc và cho niềm hạnh phúc của dân tộc. Một lần nữa, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn được trao cho một chức vụ trọng yếu và hết sức khó khăn, khó có ai đảm đương nổi. Ông sẽ đi trấn nhậm tỉnh Chương Thiện, một tỉnh có địa hình phức tạp nhất vùng đồng lầy Miền Tây, với cái gai nhọn nhức nhối mật khu U Minh Thượng trong lãnh thổ, từ đó quân Bắc Việt và Việt Cộng phóng ra những cuộc đánh phá lớn, uy hiếp các quận xã hẻo lánh. Chọn Đại Tá Cẩn về trấn giữ tỉnh Chương Thiện, vị Tư Lệnh Quân Đoàn IV biết chắc Đại Tá Cẩn cùng với lực lượng Địa Phương Quân-Nghĩa Quân thiện chiến của ông sẽ ít nhất hóa giải được áp lực giặc, không cho chúng tiến xuống Cần Thơ. Giữ vững được Chương Thiện tức là bảo đảm an toàn cho lãnh thổ Quân Khu IV ở bờ Nam sông Hậu Giang.
Trong thời gian Đại Tá Cẩn làm tỉnh trưởng Chương Thiện, nhiều huyền thoại khác về ông đã được kể lại. Đại Tá Cẩn chẳng những là một nhà quân sự xuất chúng, mà còn là một nhà cai trị và bình định tài ba. Một ngày trước khi ông nhận bàn giao tỉnh Chương Thiện, Đại Tá Cẩn đã ăn mặc thường phục, giả dạng thường dân đi thanh tra ngầm một vòng tỉnh lỵ Vị Thanh. Ông vào các sòng bài, những nơi nhận tiền đánh số đề và những ổ điếm quan sát.
Ngày hôm sau, khi đã chính thức là vị Tỉnh Trưởng Chương Thiện, Đại Tá Cẩn cho gọi người Thiếu Tá Trưởng Ty Cảnh Sát tỉnh đến cật vấn nghiêm khắc về những tệ đoan xã hội trong tỉnh, rồi lập tức cách chức ông này. Thay vào đó là Trung Tá Đường, một vị sĩ quan mẫn cán và tài năng. Trung Tá Đường là cánh tay mặt vững chãi của Đại Tá trong lĩnh vực bình định, xã hội và truy bắt bọn Việt Cộng hoạt động dầy đặc trong tỉnh. Bọn cộng phỉ rất căm thù Trung Tá Đường, đến nỗi sau ngày 30.4.1975, chúng bắt được Trung Tá Đường, chỉ giam giữ ông một thời gian ngắn rồi đem ông ra xử bắn tại Vị Thanh. Cùng đền ơn tổ quốc với Trung Tá Đường còn có Đại Úy Bé, Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Thám Báo Tỉnh. Đại Úy Bé đã làm điêu đứng bọn giặc cộng, với những chiến sĩ Thám Báo nhảy sâu vào hậu cứ địch báo cáo tin tức, địch tình, cũng như tọa độ trú quân để Không Quân, Pháo Binh dội những cơn bão lửa lên đầu chúng. Trung Tá Đường và Đại Úy Bé bị giặc tàn nhẫn bắn chết tại chân cầu dẫn vào thành phố Vị Thanh.
Có một ông Quận Trưởng nọ, muốn cho chi khu của mình được an toàn tối đa, chiều nào cũng xin Pháo Binh tiểu khu yểm trợ hỏa lực, nại lý do Việt Cộng pháo kích hay tấn công. Đại Tá Cẩn thỏa mãn tối đa và được báo cáo là quận bị thiệt hại một kho xăng và kho lương thực. Đại Tá tin thật, ông lệnh cho sĩ quan Trưởng Phòng 3 chuẩn bị xe Jeep đi xuống quận. Buổi chiều chạng vạng trên những con đường đất hoang vắng rợn người ở vùng quê Chương Thiện mà vị Tỉnh Trưởng trẻ của chúng ta dám đi xe Jeep cùng với một vài người lính, chỉ có những chiến binh dũng cảm như Đại Tá Cẩn mới làm được. Ông Quận Trưởng đang nằm trên võng rung đùi uống Martell hoảng kinh ngồi bật dậy mặt mũi tái xanh đứng nghiêm chào vị Tỉnh Trưởng đầy huyền thoại. Đại Tá Cẩn đi thẳng xuống Trung Tâm Hành Quân của Chi Khu xem bản đồ và ra lệnh cho ông Quận: “Tôi muốn những ấp loại C sau ba tháng được nâng lên loại B. Những ấp loại B sau ba tháng phải được nâng lên loại A”. Ngài Quận Trưởng tạm ngưng uống rượu và làm việc trối chết. Đại Tá Cẩn không trừng trị tội xao nhãng nhiệm vụ của ông Quận, nhưng cung cách độ lượng và cương quyết của Đại Tá Cẩn giống như lưỡi gươm trừng phạt treo đung đưa trên đầu. Đúng ba tháng sau, nhận được báo cáo khả quan của vị Quận Trưởng, Đại Tá Cẩn lại xuống quận ngủ đêm, sau khi đã trân trọng gắn lon mới tưởng thưởng cho ông này. Nếu tất cả 44 tỉnh của Việt Nam Cộng Hòa đều có những vị Tỉnh Trưởng can đảm, mẫn cán và tài ba như Đại Tá Cẩn, làm sao giang sơn hoa gấm của tổ tiên của chúng ta có thể lọt vào tay bọn cộng nô tay sai Nga Tàu dễ dàng như vậy được. Chúng ta cũng được biết rằng, Đại Tá Cẩn là vị Tỉnh Trưởng trẻ tuổi nhất của Việt Nam Cộng Hòa. Ông nhận chức vụ này hồi năm 1973, lúc ông mới có 35 tuổi.
Những đóng góp và hy sinh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn lớn lao và nhiều không sao có thể kể được hết, suốt một đời người đã tận tụy với nước non, danh tiếng lừng lẫy và nắm giữ những chức vụ khó khăn, mà người vẫn khiêm nhường hết mực, giữ cuộc sống trong sáng và thanh liêm, tâm tư lúc nào cũng hướng về những thế hệ đàn em. Một người bạn cũ trong một dịp gặp lại Đại Tá Cẩn ở Cần Thơ vào mùa hè 1974, đã hỏi ông: “Anh từng là Trung Đoàn Trưởng, hiện làm Tỉnh Trưởng, anh có nghĩ rằng sau này sẽ làm Tư Lệnh sư đoàn không”? Con người danh tiếng lừng lẫy trên các chiến trường đã khiêm tốn trả lời: “Tôi lặn lội suốt mười bốn năm qua gối chưa mỏi, nhưng kiến thức có hạn. Được chỉ huy trung đoàn là cao rồi, mình phải biết liêm sỉ chớ, coi sư đoàn sao được. Làm Tỉnh Trưởng bất quá một hai năm nữa rồi tôi phải ra đi, cho đàn em họ có chỗ tiến thân. Bấy giờ tôi xin về coi Trường Thiếu Sinh Quân, hoặc coi các lớp huấn luyện Đại Đội Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, đem những kinh nghiệm thu nhặt được dạy đàn em. Tôi sẽ thuật trước sau hơn ba trăm trận đánh mà tôi đã trải qua”. Ôi cao cả biết ngần nào tấm chân tình với nước non và với thế hệ chiến binh đàn em của người. Con người chân chính để lại cho hậu thế những lời khí khái.
Cuối cùng thì cái ngày tang thương 30.4.1975 của đất nước cũng đến. Dân tộc Việt Nam được chứng kiến những cái chết bi tráng hào hùng của những vị thần tướng nước Nam, của những sĩ quan các cấp còn chưa được biết và nhắc nhở tới. Và của những người chiến sĩ vô danh, một đời tận tụy vì nước non, những đôi vai nhỏ bé gánh vác cả một sức nặng kinh khiếp của chiến tranh. Sinh mệnh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cũng bị cuốn theo cơn lốc ai oán của vận mệnh đất nước. Chu vi phòng thủ của Tiểu Khu Chương Thiện co cụm dần, quân giặc hung hăng đưa quân tràn vào vây chặt lấy bốn phía. Những chiến sĩ Địa Phương Quân-Nghĩa Quân của Chương Thiện nghiến răng ghì chặt tay súng, quyết một lòng liều sinh tử với vị chủ tướng anh hùng của mình. Đại Tá Cẩn nhớ lại lời đanh thép của ông: “Chết thì chết chứ không lùi”. Ông tự biết những khoảnh khắc của cuộc đời mình cũng co ngắn lại dần theo với chu vi chiến tuyến. Ông nhớ lại những ngày sình lầy với Biệt Động Quân, những ngày lên An Lộc với chiến sĩ Sư Đoàn 9 Bộ Binh đi trong cơn bão lửa ngửa nghiêng, những lúc cùng chiến sĩ Sư Đoàn 21 Bộ Binh đi lùng giặc trong những vùng rừng U Minh hoang dã, và những chuỗi ngày chung vai chiến đấu với chiến sĩ Địa Phương Quân-Nghĩa Quân thân thiết và dũng mãnh của ông trên những cánh đồng Chương Thiện hoang dã. Hơn ba trăm trận chiến đấu, nhưng chưa lần nào ông và chiến sĩ của ông phải đương đầu với một cuộc chiến cuối cùng khó khăn đến như thế này.
Khoảng hơn 9 giờ tối ngày 30.4.1975, gần nửa ngày sau khi Tướng Dương Văn Minh đọc lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng đầu hàng, Đại Tá Cẩn cố liên lạc về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV xin lệnh của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Người trả lời ông lại là phu nhân Thiếu Tướng Lê Văn Hưng. Đại Tá Cẩn ngơ ngác không biết chuyện hệ trọng nào mà đã đưa Bà Hưng lên văn phòng Bộ Tư Lệnh. Bà Hưng áp sát ống nghe vào tai, bà nghe có nhiều tiếng súng lớn nhỏ nổ ầm ầm từ phía Đại Tá Cẩn. Như vậy là Tiểu Khu Chương Thiện vẫn còn đang chiến đấu ác liệt và không tuân lệnh hàng cùa tướng Minh. Trước đó, khoảng 8 G 45 phút tối 30.4.1975 Thiếu Tướng Lê Văn Hưng đã nổ súng tử tiết, Thiếu Tướng Nam đang đi thăm chiến sĩ và thương bệnh binh lần cuối cùng trong Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ, rồi người tự sát ngay trong đêm. Bà Thiếu Tướng Hưng biết Đại Tá Cẩn kiên quyết chiến đấu đến cùng, thà chết không hàng, vì đó là tính cách thiên bẩm của người chiến sĩ Hồ Ngọc Cẩn. Nếu có chết thì Đại Tá Cẩn phải chết hào hùng, trong danh dự của một người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa công chính. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cùng các sĩ quan trong Ban Chỉ Huy Tiểu Khu và các chiến sĩ Tiểu Khu Chương Thiện đã đánh một trận tuyệt vọng nhưng lừng lẫy nhất trong chiến sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Đánh tới viên đạn và giọt máu cuối cùng và đành sa cơ giữa vòng vây của bầy lang sói. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 11 giờ trưa ngày 1.5.1975, quân ta không còn gì để bắn nữa, Đại Tá Cẩn lệnh cho thuộc cấp buông súng. Khi những người lính Cộng chỉa súng vào hầm chỉ huy Tiểu Khu Chương Thiện, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, vị Trung Úy tùy viên và các sĩ quan tham mưu, hạ sĩ quan và binh sĩ tùng sự đều có mặt. Một viên chỉ huy Việt Cộng tên Năm Thanh hùng hổ chỉa khẩu K 54 vào đầu Đại Tá Cẩn dữ dằn gằn giọng: “Anh Cẩn, tội anh đáng chết vì những gì anh đã gây ra cho chúng tôi”. Đại Tá Cẩn cười nhạt không trả lời.
Cộng Sản Việt Nam hèn hạ dùng nhục hình để xử tử hình Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ngày 14-8-1975.
Nhưng bọn cộng phỉ không giết ông ngay, chúng đã có kế hoạch làm nhục người anh hùng sa cơ nhưng cứng cỏi của chúng ta. Các sĩ quan tham mưu được cho về nhà, nhưng Đại Tá Cẩn thì không, địch áp giải ông sang giam trong Ty Cảnh Sát Chương Thiện. Vài ngày sau, các sĩ quan Tiểu Khu Chương Thiện cũng bị gọi vào giam chung với Đại Tá Cẩn. Để làm nhục và hành hạ tinh thần người dũng tướng nước Nam, giặc cho phá hủy nhà cầu trong Ty Cảnh Sát và thay vào bằng một cái thùng nhựa. Mỗi buổi sáng, ngày nào chúng cũng bắt Đại Tá Cẩn cùng một người nữa khiêng thùng phân đi đổ. Người ưu tiên được làm nhục thứ hai là vị Phó Tỉnh Trưởng. Dù cho các sĩ quan của ta có đề nghị hãy để cho mọi người làm công tác công bằng, nhưng bọn Cộng vẫn nhất quyết đày đọa Đại Tá Cẩn. Người anh hùng của chúng ta chỉ mỉm cười, ung dung làm công việc của mình. Chúa Jesus đã chẳng từng nói khi lên thập giá: “Lạy Cha ở trên trời, họ không biết việc họ đang làm” đó sao. Bà Đại Tá Cẩn lo sợ bị cộng quân trả thù nên bà đã đem cậu con trai duy nhất của ông bà là Hồ Huỳnh Nguyên, lúc ấy được 5 tuổi, về Cần Thơ ẩn náu và thay đổi lý lịch nhiều lần. Nhớ thương chồng, nhiều lúc bà đã liều lĩnh choàng khăn che mặt xuống Vị Thanh tìm đến Ty Cảnh Sát đứng bên này bờ con rạch nghẹn ngào nhìn vào sang dãy tường rào kín bưng. Một vài sĩ quan ra xách nước trông thấy bà đã tìm cách dẫn Đại Tá Cẩn ra. Những khoảnh khắc cuối cùng đẫm đầy nước mắt ấy sẽ theo ký ức của bà Đại Tá Cẩn đến suốt khoảng đời còn lại của bà. Đầu năm 1979 bà Cẩn cùng bé Nguyên liều chết vượt biển. Thượng Đế đã dang tay từ ái bảo vệ giọt máu duy nhất của Đại Tá Cẩn. Bà Cẩn và bé Nguyên đến được đảo Bidong thuộc Mã Lai. Mười tháng sau hai mẹ con bà Đại Tá Cẩn được phái đoàn phỏng vấn Mỹ cho định cư tại Hoa Kỳ theo dạng ưu tiên có chồng và cha bị cộng sản bắn chết tại Việt Nam.
Bọn phỉ không giết Đại Tá Cẩn ngay, chúng muốn làm nhục người và làm nhục quân dân Miền Tây. Bọn chúng sẽ thiết trí một pháp trường và dành cho người một cái chết thảm khốc hơn. Đại Tá Cẩn không thể tử tiết, vì là con chiên ngoan đạo, luật Công Giáo không cho phép con cái Chúa được tự tử. Đại Tá Cẩn thường cầu nguyện mỗi buổi sáng và thổ lộ tâm tư với thuộc cấp trước khi ra trận: “Sống chết nằm trong tay Chúa”. Vì vậy viên đạn cuối cùng người bắn vào kẻ thù, để cho chúng biết rằng nước Nam không thiếu anh hùng.
Quân dân Miền Tây đã tiếc thương cái chết của hai vị thần tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng trong ngày u ám đen tối nhất của lịch sử Việt Nam. Giờ đây, cũng trong bầu không khí ảm đạm đau buồn của ngày 14.8.1975, người dân thủ phủ Cần Thơ sẽ được chứng kiến giây phút lìa đời cao cả của người anh hùng Hồ Ngọc Cẩn. Bọn sói lang đã áp giải người từ Chương Thiện về Cần Thơ và cho bọn ngưu đầu đi phóng thanh loan báo địa điểm, giờ phút hành hình người anh hùng cuối cùng của Quân Lực Việt Cộng Hòa. Bọn tiểu nhân cuồng sát thay vì nghiêng mình kính phục khí phách của người đối địch, thì chúng lại lấy lòng dạ của loài khỉ và loài quỷ để đòi máu của người phải chảy. Chúng quyết tâm giết Đại Tá Cẩn để đánh đòn tâm lý phủ đầu lên những người yêu nước nào còn dám tổ chức kháng cự lại bọn chúng. Thật đau đớn, trong khoảnh khắc cuối cùng này, bà Đại Tá Cẩn và người con trai còn phải ẩn trốn một nơi kín đáo theo lời căn dặn của Đại Tá Cẩn trước khi ông bị bắt, vì sợ bọn chúng bắt bớ tra tấn, nên bà không thể có mặt để chứng kiến giây phút Đại Tá Cẩn đi vào lịch sử.
Trước lúc bị hành hình, những người cộng sản xử ông hỏi ông có nhận tội không thì ông trả lời như sau: “Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán xét đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo cộng sản. Việt Nam muôn năm”.
Đại Tá Cẩn bị giải lên chỗ hành hình, mấy tên khăn rằn hung hăng ghìm súng bao quanh người chiến sĩ. Trước khi bắn người, tên chỉ huy cho phép người được nói. Đại Tá Cẩn trong chiếc áo tù vẫn hiên ngang để lại cho lịch sử lời khẳng khái: “Tôi chỉ có một mình, không mang vũ khí, tôi không đầu hàng, các ông cứ bắn tôi đi. Nhưng trước khi bắn tôi xin được mặc quân phục và chào lá quốc kỳ của tôi lần cuối”. Dĩ nhiên lời yêu cầu không được thỏa mãn. Đại Tá Cẩn còn muốn nói thêm những lời trối trăn hào hùng nữa, nhưng người đã bị mấy tên khăn rằn nón cối xông lên đè người xuống và bịt miệng lại. Tên chỉ huy ra lệnh hành quyết người anh hùng. Điều duy nhất mà bọn chúng thỏa mãn cho người là không bịt mắt, để người nhìn thẳng vào những họng súng thù, nhìn lần cuối quốc dân đồng bào. Rồi người ngạo nghễ ra đi.
Cùng ngẩng cao đầu đi vào chiến sử Việt Nam với Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn tại sân vận động Cần Thơ là người anh hùng Thiếu Tá Trịnh Tấn Tiếp, Quận Trưởng quận Kiến Thiện, bạn đồng khóa với Đại Tá Cẩn. Thiếu Tá Tiếp đã cùng các chiến sĩ Địa Phương Quân Chi Khu chiến đấu dũng cảm đến sáng ngày 1.5.1975 thì ông bị sa vào tay giặc. Thiếu Tá Tiếp là một sĩ quan xuất sắc, trí dũng song toàn. Ông đã từng gây rất nhiều tổn thất nặng nề cho quân địch, nhờ tổ chức thám sát chính xác, có lần ông đã gọi B 52 dội trúng một trung đoàn cộng quân và hầu như xóa sổ trung đoàn này. Cộng quân ghi nhớ mối thù này, người anh hùng của chúng ta sa vào chúng, thì chúng sẽ giết chết ông không thương tiếc. Hai người anh hùng cuối cùng của miền Tây đã vĩnh viễn ra đi. Đất trời những ngày đầu mùa mưa bỗng tối sầm lại.
Một nhân chứng đứng ở hàng đầu dân chúng kể lại rằng, trong những giây phút cuối cùng, Đại Tá Cẩn đã dõng dạc hét lớn: “Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm! Đả Đảo Cộng Sản”! Năm sáu tên bộ đội nhào vào tấn công như lũ lang sói, chúng la hét man rợ và đánh đấm người anh hùng sa cơ tàn nhẫn. Người dân Cần Thơ lén đưa thi thể cố Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn về… và phủ cho một lá cờ Việt Nam Cộng Hòa… mà cố Đại Tá đã suốt đời phục vụ cho lý tưởng của Việt Nam Cộng Hoà.
Người phụ nữ nhân chứng nước mắt ràn rụa, bà nhắm nghiền mắt lại không dám nhìn. Bà nghe trong cõi âm thanh rừng rú có nhiều tiếng súng nổ chát chúa. Khi bà mở mắt ra thì thấy nhiều tên Việt Cộng quây quanh thi thể của Đại Tá Cẩn và khiêng đem đi.
Đúng ra, phải vinh danh Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn là Chuẩn Tướng Hồ Ngọc Cẩn, vì người đã anh dũng chiến đấu trên chiến trường và vị quốc vong thân. Nhưng Tổng Thống Tổng Tư Lệnh, Tổng Tham Mưu Trưởng đã bỏ chạy từ lâu, Tư Lệnh Quân Khu IV đã tử tiết, lấy ai đủ tư cách trao gắn lon và truy thăng Chuẩn Tướng cho người. Anh linh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã thăng thiên. Tên tuổi của ông đã đi vào lịch sử đến ngàn đời sau. Xin người hãy thương xót cho dân tộc và đất nước Việt Nam còn đang chìm đắm trong tối tăm và gông xiềng cộng sản, xin hãy ban cho những người còn đang sống khắc khoải sức mạnh và quyết tâm. Để cùng nhau đứng dậy lật đổ chúng, hất bọn chúng, tất cả bọn tự nhận là con cháu loài vượn đó vào vực thẳm lạnh lẽo nhất của địa ngục.
Phạm Phong Dinh
HLTL: Theo tài liệu của Bác sĩ Yên Tử Trần Đại Sỹ, trong số nhân chứng có mặt tại sân vận động Cần Thơ ngày 14-8-1975 thuật lại có bà Vũ Thị Quỳnh-Chi (phu nhân Trung-tá bác-sĩ Jean Marc Bodoret, hiện sống ở Marseille). Bà là em ruột của cựu Thiếu-sinh-quân Vũ Tiến Quang, người lính sau cùng bên cạnh tử chiến cùng Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn.
Video: Quốc Hận 30-4-1975 – Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn
(Phu nhân Cố Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn chia sẻ)

Tưởng nhớ Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, đồng bào tị nạn CS dựng tên đường mang tên Hồ Ngọc Cẩn ở khu Eden Center, Virginia, Hoa Kỳ (Ảnh chụp 2008 – HLTL)

Chuẩn Tướng Richard J. Tallman Tử Trận tại An Lộc 1972


  1. Richard J. Tallman

    From Wikipedia, the free encyclopedia
    Richard J. Tallman
    Born March 28, 1925
    Wayne County, Pennsylvania
    Died July 9, 1972 (aged 47) An Lộc, South Vietnam
    Place of burial West Point Cemetery
    Allegiance United States United States of America
    Service/branch Emblem of the United States Department of the Army.svg United States Army
    Years of service 1943–1972
    Rank Brigadier General US-O7 insignia.svg
    Commands held Deputy Commander, Third [Military] Regional Assistance Command
    Battles/wars World War II Korean War Vietnam War 
    Awards Silver Star

    Richard J. Tallman (March 28, 1925 – July 9, 1972) was a United States Army brigadier general who was killed by North Vietnamese artillery fire in 1972 during the Battle of An Lộc.[1] He was the last U.S. Army general and last general officer to die in the Vietnam War. He also served in World War II and the Korean War.

    Contents

    Early life and family

    He was born in Honesdale, Wayne County, Pennsylvania.
    General Tallman married Miss Evelyn Phillips in 1949, they had seven children.

    Education

    He graduated from Honesdale High School in 1943.
    He graduated from the US Military Academy at West Point in 1949.

    US Army career

    Shortly after graduation he was drafted into the Army and sent to the European theatre. He fought in the Battle of the Bulge as a machine gunner. He later earned a field commission. He subsequently became a cadet at West Point graduating in the Class of 1949 as an infantry officer.
    1st Lt Tallman saw action during the Korean War in 1951-2 with the 3rd Infantry Division.
    He later served as a tactical officer and military history teacher and as assistant commandant of cadets at West Point.

    Vietnam War

    General Tallman served four tours of duty during the Vienam War.
    He served as senior advisor to the ARVN 22nd Infantry Division.
    Then-Lieutenant Colonel Tallman commanded the 2nd Battalion, 501st Infantry Regiment in 1968-68.
    On 18 June 1971, then-Colonel Tallman became commander of the 3rd Brigade of the 101st Airborne Division.
    On 1 July 1972 he was promoted to Brigadier-General and appointed as Deputy Commander of Third [Military] Regional Assistance Command (TRAC) which was responsible for overseeing all U.S. military advisors throughout the 3rd Military Region.

    Death

    On 9 July 1972, General Tallman and his aides had just landed at An Lộc to observe ARVN counter-offensive operations at the conclusion of the Battle of An Lộc when they were hit by North Vietnamese artillery fire, 3 of the group were killed instantly, while General Tallman and two others were wounded. The wounded men were evacuated to the 3rd Field Hospital in Saigon where General Tallman died of his wounds.[2]He was the last U.S. Army general to die in South Vietnam.

    Memorials

    The Brigadier General Richard J. Tallman Memorial Bridge in Honesdale is named in his honour.[3]

    See also

    References


  2. "Richard Tallman, Brigadier General, United States Army". The Virtual Wall. Retrieved 24 August 2014.

  3. Willbanks, James (2005). The Battle of An Loc. Indiana University Press. p. 145. ISBN 9780253344816.

  4. "BRIGADIER GENERAL RICHARD J. TALLMAN MEMORIAL BRIDGE - DESIGNATION Act of Jul. 7, 2011, P.L. 273, No. 58 Cl. 87" (PDF). Pennsylvania General Assembly. July 7, 2011. Retrieved 24 August 2014.



Tướng Lê Văn Hưng, người hùng An Lộc

Tướng Lê Văn Hưng đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh, khi còn mang cấp bậc Đại Tá. Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, ông được giao nhiệm vụ tổng chỉ huy mặt trận An Lộc, ông giữ vững thị xã An Lộc và đã đẩy lui quân cộng sản Bắc Việt sau hai tháng tử chiến tại mặt trận này.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho quân dân Việt Nam Cộng Hòa buông súng, ông ra lệnh cho thuộc cấp tan hàng, sau đó quay vào văn phòng rút súng bắn vào đầu tự sát đền nợ nước.
Trong tiết mục Danh nhân nước Việt, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài "Tướng Lê Văn Hưng, người hùng An Lộc" của Việt Thái qua giọng đọc của Hoài Phương và Nam Hương để kết thúc chương trình tối hôm nay.

Khí tiết Lê Văn Hưng đã thăng hoa giữa chiến trường Bình Long và hoa anh hùng Lê Văn Hưng đã nở đẹp tại phòng tuyến An Lộc. Và rồi hấp hối theo vận nước, phút cuối Lê Tướng Quân đã chọn cái chết bi hùng để trở thành bất tử trong lịch sử và quân sử Việt Nam.
Với dụng ý vinh danh và tưởng niệm Tướng Lê Văn Hưng, nơi trang cuối của tác phẩm "Last Man Out", tác giả James E Parker, đã xếp bài thơ không tựa, không tên tác giả với câu thơ chấm dứt: I am not there. I did not die.
Và sau chót, một câu lập ngôn được xem như quân huấn của danh tướng Douglas MacArthur: "Duty, Honor, Country".

***
Tướng Lê Văn Hưng xuất thân khóa 5 Sĩ quan Trừ bị Thủ Ðức, mãn khóa vào tháng 1 năm 1955. Sau ngày ra trường, ông thuyên chuyển về miền Tây giữ các chức vụ chỉ huy từ cấp Đại đội, Tiểu đoàn (TĐ), Trung đoàn (TrĐ) thuộc Sư đoàn 21 Bộ Binh.
-Năm 1966, mang cấp bậc Thiếu tá, ông làm Tiểu đoàn trưởng TĐ2, TrĐ31, SĐ21BB. Cũng trong năm 1966, ông được các phóng viên chiến trường vinh danh là một trong Ngũ hổ U Minh Thượng cùng với 4 sĩ quan khác là: Thiếu tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu đoàn trưởng TĐ42 BÐQ. Thiếu tá Nguyễn Văn Huy, Tiểu đoàn trưởng TĐ44BÐQ. Ðại úy Vương Văn Trổ, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3, TrĐ33, SĐ21BB. Ðại úy Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu đoàn trưởng TĐ 1, TrĐ33, SĐ21BB.
-Năm 1968, ông làm Trung đoàn trưởng TrĐ 31, SĐ21BB. Ông đã lập nhiều chiến tích tại chiến trường Hậu Giang nên được thăng cấp Đại tá.
-Tháng 6/1971, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh SĐ5BB khi còn mang cấp Đại tá.
-Năm 1972, ông được thăng cấp Chuẩn tướng, vẫn làm Tư lệnh SĐ5BB đến ngày 3/9/1972 và sau đó giữ chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn III.
-Năm 1973, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 21 BB, cuối tháng 10/1974, ông đảm nhận chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn IV, Quân khu 4.
Tối ngày 30/4/1975, tại Bộ Tư lệnh Quân đoàn, sau khi nói lời từ giã với gia đình và bắt tay từ biệt thuộc cấp, Tướng Hưng đã quay vào văn phòng, khóa chặt cửa và tự sát bằng súng lục vào lúc 8 giờ 45 phút tối.
***
Tác giả James E Parker, đã kể lại cái chết bi tráng, thương cảm của Tướng Lê Văn Hưng như sau:
"Ngày 30 tháng 4 năm 1975, đúng 7 giờ tối, Tướng Hưng, đã nhắn gọi vợ ông đến văn phòng làm việc tại Cần Thơ, ông không hề nghĩ tới việc diện kiến và thảo luận với một giới chức Việt Cộng tên Hoàng Văn Thạch, để bàn giao vùng Hậu Giang cho Cộng Sản. Ông không bỏ nước để thoát thân. Ông có trách nhiệm với những quân nhân đã dành mạng sống của họ ở lại vị trí trấn thủ. Ông đã ở lại bằng một lựa chọn vinh dự. Ông phải tự quyết định sinh mạng của mình.
Khi người vợ và các con bước vô văn phòng làm việc của ông, Tướng Hưng nói lời chia tay và cúi xuống hôn từng đứa con. Bên ngoài văn phòng, nhiều sĩ quan và binh lính thuộc cấp lần lượt kéo tới, đứng sắp hàng ngoài sân, chờ đợi lệnh.
Tướng Hưng tuyên bố việc chiến đấu đã chấm dứt. Ông nói, nước đã mất là do lãnh đạo kém tại Sài Gòn, và xin thuộc cấp tha thứ lỗi của ông, nếu như cá nhân ông đã có những lỗi lầm nào đó.
Bầu không khí xung quanh nặng nề. "Tôi chấp nhận cái chết. Vĩnh biệt các anh em", Tướng Hưng nói dứt câu đưa tay lên chào và bắt tay từng người một. Ông yêu cầu mọi người ra về và chỉ một mình bước vô văn phòng làm việc. Chỉ trong khoảnh khắc sau đó vang lên một tiếng súng nổ. Tướng Hưng đã tự sát bằng súng".
***
Tướng Lê Văn Hưng đã cùng với quân sĩ các cấp giữ vững phòng tuyến tỉnh lỵ Bình Long. Trong những giờ phút căng thẳng nhất của cuộc chiến, ông đã nêu gương sáng cho các sĩ quan thuộc quyền về phong cách chỉ huy. Trong cuộc phỏng vấn, thay vì nói về mình, Tướng Hưng chỉ đề cao tinh thần chiến đấu của chiến sĩ thuộc các quân binh chủng đã giữ vững An Lộc và tình cảnh bi đát của mấy chục ngàn đồng bào kẹt giữa vùng lửa đạn Bình Long. Trước khi vĩnh biệt, ông nhận lãnh trách nhiệm trước lịch sử và dân tộc, ông nói: "Tôi bằng lòng chọn cái chết. Tướng mà không giữ được Nước, không bảo vệ được Thành, thì phải chết theo Thành".
Đúng 40 năm sau ngày 30/4/1975, không chỉ có các thế hệ lớn lên ở VN mà cả dân chúng nước Mỹ cũng đau lòng khi biết được những giờ phút lẫm liệt vào cuối đời của Tướng Lê Văn Hưng. Một điều rõ ràng nhất là ông hiểu rất tường tận bọn cộng sản nên chọn cái chết chứ không muốn bị lăng nhục như Dương Văn Minh khi bị một đại tá cộng sản ra lệnh đầu hàng tại Dinh Độc Lập.
Khi viết cuốn sách "Last Man Out – A Personal Account of the Vietnam War", tác giả James E Parker Jr. chắc chắn sẽ ngậm ngùi nhớ lại dấu mốc lịch sử khi Tướng Robert Edward Lee, trao thanh gươm biểu tượng cho sự đầu hàng của Nam quân cho Tướng Ulysses S. Grant của Bắc quân để chấm dứt cuộc nội chiến Nam - Bắc Mỹ. Sau khi nhận thanh gươm, Tướng Grant đã nói một câu bất hủ để xóa đi mặc cảm thất trận của Tướng Lee: "Đây không phải là sự thắng bại gì cả. Đây là niềm ô nhục trong lịch sử Hoa Kỳ".
Chính nhờ câu nói đó mà Tướng Lee không chết vì uất hận, trái lại đã cổ xúy mạnh mẽ cho việc hòa hợp giữa hai miền sau chiến tranh. Nhưng đất nước VN không có được sự may mắn đó, 40 năm trôi qua, người cộng sản vẫn tiếp tục gây thêm phân hóa và hận thù trong lòng dân tộc khi ra rả xưng tụng cái gọi là "Đại thắng Mùa xuân 1975".
Nhưng càng rầm rộ thì càng khiến cho người dân VN biết đến những võ tướng hiển hách của quân lực VNCH, trong đó có Tướng Lê Văn Hưng, người hùng An Lộc!
Việt Thái

Người Hùng An Lộc / Tướng Nhảy Dù Lê Quang Lưỡng

Tướng Lê Quang Lưỡng sinh năm 1932 quê tại tỉnh Bình Dương. Thời niên thiếu, học hết bậc Tiểu học tại tỉnh nhà ông lên Sài Gòn theo học tại Trường Trung Học Petrus Ký. Sau khi lấy bằng Thành Chung ông gia nhập vào quân đội và xuất thân Khóa 4 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, cùng khóa với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, Đại Tá Lê Văn Phát…Ngay khi vừa mãn khóa vào ngày 1 tháng 06 năm 1954 ông tình nguyện sang Binh Chủng Nhảy Dù và được gởi ngay ra Bắc bổ sung cho Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù với chức vụ Trung Đội Trưởng của Đại Ðội 52 ND. Từ đó ông đã trải qua các chức vụ chỉ huy từ cấp Trung Đội Trưởng (Thăng cấp Trung Úy tháng 6/1956), Đại Đội Trưởng (Thăng cấp Đại Úy tháng 11/1963), Ban 3 Tiểu Đoàn rồi Tiểu Đoàn Phó.
Năm 1965 Ông được đi du học về “Tác Chiến Trong Rừng Núi Sình Lầy” tại Mã Lai Á. Tại quân trường ông đã trình bày chiến thuật tấn công và tác chiến theo quan điểm của riêng ông được tất cả các Huấn luyện viên đều chú ý và thán phục. Đến tháng 9/1965, về nước với bằng tốt nghiệp Thủ Khoa, ông được Tướng Dư Quốc Đống chỉ định nhiệm vụ thành lập và giữ chức Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2ND tại Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Vạn Kiếp ở Bà Rịa. Trong buổi lể xuất quân của TĐ2ND vào tháng 1/1966, Đại Tá Lý Thái Như Chỉ Huy Trưởng TTHL/QG Vạn Kiếp đã Chủ Tọa và trao gắng cấp bậc Thiếu Tá cho Ông.
Sau buổi lể xuất quân, Tiểu Ðoàn 2 ND về trấn giữ vòng đai Biệt-Khu-Thủ-Ðô vừa chỉnh trang đơn vị, vừa tái huấn luyện tại chỗ. Chính ông đã đứng ra hướng dẩn tất cả Sĩ quan cũng như binh sĩ về chiến thuật và kỹ thuật tác chiến của Nhảy Dù và ngay sau đó TĐ2ND đã tham chiến tại khu phi chiến, tại đồi 1416 trên đỉnh Ngok Wank quân khu II, tại khắp các mặt trận ở các quân khu và đã từng gây kinh hoàng cho các đơn vị CS không thua bất cứ một đơn vị Nhảy Dù kỳ cựu nào khác.
Cuối năm 1967, ông sang Okinawa du khảo và học hỏi về Chiến thuật phản tình báo và chống chiến tranh du kích. Ngày 25/1/1968, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Lữ Ðoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù thay thế Trung Tá Hồ Trung Hậu, đánh đuổi quân Cộng Sản ra khỏi Huế và Quảng Trị trong trận chiến “Tổng Công Kích năm Mậu Thân” của CS. Sau trận nầy ông được thăng cấp Trung Tá tại mặt trận vào tháng 4/1968. Và cũng trong chức vụ LĐT/LĐIND ông được thăng cấp Ðại Tá tại mặt trận vào tháng 9/1969 sau các cuộc hành quân tại Tây Ninh để tiêu diệt các đơn vị CS lẩn khuất trong khu vực Chiến Khu C và đưa chiến trường ra khỏi lảnh thổ Quân Khu III qua bên kia biên giới.
Kể từ đây, ông đã tham gia hầu hết các cuộc hành quân làm nên lịch sử của SĐND, như là Chiến dịch Bình Tây Kampuchea 1970, Hành Quân Lam Sơn 719 trên đất Lào vào tháng 02 năm 1971, giải vây An Lộc tháng 4/1972, Hành Quân Lam Sơn 72 trong chiến dịch Lôi Phong tái chiếm Quảng Trị vào tháng 06 năm 1972, và cuộc hành quân tái chiếm Thường Đức vào tháng 08 năm 1974. Trong ba cuộc hành quân đầu, Tướng Lưỡng đã tham dự với tư cách Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, trong các cuộc hành quân về sau Tướng Lưỡng đã điều quân với tư cách là Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù.
Trong trận chiến giải vây An Lộc năm 1972, tài điều binh của ông đã được đưa vào chương trình nghiên huấn của Trường Quân Sự Command and General Staff College (Đại Học Chỉ Huy & Tham Mưu) ở Fort Leavenworth, tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ sau hai danh tướng Tôn Tử, một thiên tài quân sự nổi tiếng của Trung Hoa thời Xuân Thu Chiến Quốc (722 – 480 TCN) và Erwin Rommel (1891 – 1944 có biệt danh là "the Desert Fox") một tướng lảnh lừng danh của Đức Quốc Xả vào đệ nhị thế chiến.
Trong trận chiến nầy ông đã phối hợp chiến thuật phân tán mỏng các đơn vị Nhảy Dù để bao vây, dùng các Tổ Khinh Binh đột kích vào các chốt của CS rồi dùng Phi Pháo và Pháo Binh tiêu diệt địch để phá vở chiến thuật Chốt Kiềng của CS tại suối Tàu Ô cũng như tại cửa ngỏ Sóc Gòn của An Lộc.
Đại Tá Lê Quang Lưỡng đã áp dụng yếu tố bất ngờ một cách táo bạo và thành công khi đổ quân Nhảy Dù xuống Sóc Ton Cui cạnh Đồi Gió để làm đầu cầu, rồi tiến vào An Lộc. Ông cũng đã nghi binh đánh lạc hướng địch quân khi liên lạc bằng hệ thống âm thoại báo cho Tướng Hưng rằng ông sẽ không vào An Lộc mà ngày mai Quân Đoàn sẽ đưa một đại đơn vị nhảy xuống phía Bắc An Lộc tấn công vào Đồi Đồng Long vào giải cứu các đơn vị bị bao vây. Ông được Tướng Minh Tư Lịnh Quân Khu III đặt trọn niềm tin và giao cho Ông trọn quyền quyết định sách lược.
Với kinh nghiệm lão luyên trên chiến trường của một “Quân Đội con nhà nghèo” với sự yểm trợ tích cực của người bạn đồng minh, ông đã sử dụng tài tình và hiệu quả lối đánh thần tốc của các Chiến Binh Nhảy Dù với hỏa lực vô tiền khoáng hậu của phi pháo và các pháo đài bay B52 để tiêu diệt các đơn vị CS, để giải vây cho các đơn vị thuộc quyền, để mở rộng vòng đai và rồi hoàn toàn giải tỏa An Lộc.
Tháng 6 năm 1972, Đại Tá Lê Quang Lưỡng được đề cử chức vụ Phụ-Tá hành-quân cho Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù là Trung Tướng Dư Quốc Đống trong chiến dịch Lôi Phong tái chiếm Quảng Tri. Cuối tháng 8 năm 1972, ông được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thăng cấp Chuẩn Tướng, và sau đó ông được bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Phó, xử lý thường vụ chức vụ Tư Lệnh SĐND. Lúc bấy giờ Bộ Tư Lệnh Hành Quân Sư Đoàn Nhảy Dù đặt tại căn cứ Hiệp Khánh, cách Huế 17 km về phía Bắc.
Tháng 11 năm 1972, Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng chính thức được chỉ định làm Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù cũng là vào lúc VNCH đang đi vào một giai đoạn cực kỳ khó khăn nhất trong lịch sử. Sư Đoàn Nhảy Dù do ông chỉ huy đã phải đương đầu với bao nhiêu thử thách từ phía Cộng quân cũng như từ phía Đồng Minh và nội bộ của VNCH. Nhưng ông luôn giữ đúng phong cách của một vị chỉ huy, thi hành trách nhiệm được giao phó một cách hoàn hảo và suốt đời tận tụy hy sinh cho tổ quốc đến những ngày cuối tháng 4/1975.
Trận đánh để đời sau cùng của ông là trận Thường Đức từ tháng 8/1974 đến tháng 11/1974 ông đã áp dụng chiến thuật Xa Luân Chiến để 3 Lữ Đoàn Nhảy Dù luân phiên giao tranh và gây thiệt hại nặng nề cho hai SĐ324B, SĐ304 và một Trung Đoàn của SĐ2CSBV cùng các lực lượng địa phương.
Năm 1975 vào những ngày tháng lịch sử của VNCH, lệnh từ trung ương bỏ quân Đoàn I và rút Sư Đoàn Nhảy Dù về Sài Gòn. Một tin chấn động cho toàn quân, toàn dân và sự kinh hoàng tột độ ấy đã mở đầu cho sự tan rã ồ ạt sau đó.
Hơn thế nữa, kể từ ngày SĐND được bốc khỏi Vùng I, quyền chỉ huy chiến thuật binh chủng Nhảy Dù, quyền xử dụng các chiến binh Nhảy Dù cũng vượt ra khỏi tầm tay của vị Tư Lệnh. Các đơn vị Nhảy Dù đã bị xé ra từng mảnh. Mỗi đơn vị một nơi rồi lần lượt bị tan hàng.
Ngày 29 tháng 4 năm 1975 Tướng Lưỡng di tản sang Hoa Kỳ, với nỗi ngậm ngùi: “Sầu hận của tim ta ai biết được. Người tươi vui ta mãi mãi căm hờn”.
Và sau đó ông định cư tại thành phố Hampton tiểu bang Virginia, đến năm 1979 ông cùng gia đình di chuyển về California thành phố Baker Field cho đến cuối đời.
Trong khoảng thời gian từ 1976 đến những năm 1982 ông có tham dự vào một số sinh hoạt trong nỗ lực trở lại VN tổ chức lực lượng kháng chiến nhưng tiếc rằng Trời đã không chiều lòng người. Sau này ông lui dần vào im lặng và ít khi lên tiếng. Ông cũng thường sinh hoạt và gần gũi với Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam từ năm 1980.
Năm 1990 ông cùng Tướng James B.Vaught Hoa Kỳ dẫn đầu đoàn diễn hành của Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam trên đại lộ Constitution, Washington D.C cùng với các đơn vị Nhảy Dù của 32 quốc gia bạn, nhân ngày kỷ niệm 50 năm thành lập binh chủng Nhảy Dù Hoa Kỳ. Nhảy Dù là đơn vị của QLVNCH đầu tiên và duy nhất từ trước cho đến thời điểm nầy, được mời chính thức rước ngọn cờ Vàng ba sọc Đỏ giữa lòng thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Hai bên đường dân chúng Hoa Kỳ và đồng bào Việt Nam tỵ nạn Cộng Sản, đón tiếp và cổ võ nồng nhiệt.
Ngày 21/9/2005 Tướng Lê Quang Luỡng đã qua đời tại Bakefield California vì chứng bệnh Gan, thọ 73 tuổi, để lại nhiều luyến thương sâu xa cho đoàn quân Mũ Đỏ. Đến phút cuối, ông nhất định không cho phủ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ lên “quan tài của một bại tướng lưu vong”, ông cũng trăn trối không nhận vòng hoa đưa đám, chỉ nhận tiền mặt để gởi về quê nhà giúp các đàn em thương tật. Tinh thần Tổ Quốc – Danh Dự - Trách Nhiệm và “Huynh Đệ Chi Binh” của người Anh Cả Mũ Đỏ không ai có thể cao hơn thế được.
Võ Trung Tín - Nguyễn Hữu Viên

Tháp tùng TT Nguyễn Văn Thiệu vào An Lộc

Tháp tùng TT Nguyễn Văn Thiệu vào An Lộc

An Lộc tỉnh lỵ Bình Long là một trong ba mặt trận ác liệt nhất trong mùa hè đỏ lửa 1972. Đại quân Cộng sản Bắc việt quân số 40.000 người có xe tăng pháo binh yểm trợ đã phong tỏa thị xã này trong gần ba tháng. Ngày 7/7/1972 Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã có một quyết định dũng cảm, ông đi vào nơi nguy hiểm nhất để tôn vinh những chiến binh tử thủ An Lộc, thăm quân cán chính và người dân còn kẹt trong thị xã. Nam Nguyên lúc đó là đặc phái viên của Hệ thống Truyền thanh Quốc gia kể lại chuyến đi mà chỉ có mình anh là phóng viên tường thuật và một thu hình viên được tháp tùng.

Công tác đặc trách mặt trận An Lộc của tôi thực sự kết thúc vào ngày 7/7/1972 với kỷ niệm không bao giờ quên. Hôm đó tôi được lệnh vào Đài Phát Thanh Saigon rất sớm, lệnh trên là chuẩn bị máy cassette và băng pin đầy đủ… đi đâu làm gì không biết và thêm một lệnh đặc biệt nữa, từ lúc này không được điện thoại liên lạc với bất kỳ ai.

Mọi việc dần dần sáng tỏ trong chuyến đi được bảo mật khác thường, tôi là hành khách của một trong hai chiếc trực thăng UH1D nhưng dành cho VIP có ghế đàng hoàng, người ngồi đàng trước tôi là Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu trưởng QL.VNCH. Máy bay bên kia là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và ông Hoàng Đức Nhã, Tổng trưởng Dân Vận Chiêu Hồi một người có nhiều ảnh hưởng với Tổng thống…

Cho đến khi nhận ra những hàng cây cao su bạt ngàn và màu đất đỏ, tôi biết mình đang một lần nữa bay vào An Lộc…Bởi vì những ngày tháng đặc trách mặt trận An Lộc, tôi đã từng bị rơi trực thăng trong rừng vào ngày 29/4/1972 cũng như đã vào được An Lộc ngày 13/6/1972 để gửi về bài tường trình tại chỗ có lời tướng tử thủ Lê Văn Hưng…

Lần này ngày 7/7/1972 cũng bãi B15 gần thị xã, trực thăng đáp an toàn, có lẽ vòng vây địch đã bị đẩy ra xa hơn, các cao điểm như đồi Đồng Long, đồi 100 đã được tái chiếm, nhưng Đồi Gió, phi trường Quản Lợi vẫn ở trong tay quân Bắc Việt. Nói theo các nhà quân sự, vòng vây đã dãn ra xa hơn nhưng địch quân vẫn chiếm những vị trí có thể quan sát thành phố An Lộc đổ nát… Địch không pháo kích lúc máy bay đáp xuống bãi B15 gần thị xã mà mật danh truyền tin là Khánh Ly, hơn nữa Không quân sẽ phải dọn vùng rất cẩn thận để bảo vệ Tổng thống.

Cựu Chuẩn tướng Mạch Văn Trường là một sĩ quan tử thủ An Lộc, lúc đó ông là Đại tá Trung đoàn trưởng Trung Đoàn 8 SĐ5 BB. Ông Mạch Văn Trường và gia đình hiện định cư ở Houston Texas Hoa Kỳ, do sức khỏe chưa hồi phục hoàn toàn sau khi lâm trọng bệnh, cựu Chuẩn tướng Mạch Văn Trường nói vắn tắt:

“An Lộc là chiến trường cô đơn, nguyên thủ quốc gia đến thăm thì tinh thần quân dân ai cũng lên dữ lắm…”

Ngày 7/7/1972 Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong tư cách Tổng tư lệnh quân đội đã có một chuyến đi lịch sử, ông đi vào nơi nguy hiểm nhất nơi mà ông đã ra lệnh tử thủ, thăm quân cán chính và người dân còn kẹt trong thị xã. Tôi đã chứng kiến những hình ảnh bi hùng, có lẽ Tổng thống Thiệu đã đọc bài diễn văn ứng khẩu hay nhất trong sự nghiệp chính trị của mình. Ông leo lên một chiếc PT76, một trong hàng chục chiến xa của địch bị bắn hạ ngổn ngang trên Dốc Tử Thần. Cử toạ của ông không phải là những nghị sĩ dân biểu com-lê cà vạt, họ là những chiến binh áo trận tả tơi, dân quân cán chính thiếu ăn ở Bình Long, những người sống sót sau những tháng dài bị vây hãm. Những tràng pháo tay này mới thực sự xuất phát từ trái tim, không phải những tràng pháo tay từng làm gián đoạn những bài diễn văn về chính sách quốc gia, khi ông đọc trước lưỡng viện Quốc hội. Ở những nơi chốn đó có những tràng pháo tay vì lợi nhuận chính trị, vì tham vọng quyền lực.
Nghĩa trang Biệt Cách Dù bên hông chợ nhỏ An Lộc. Thời gian này, Liên đoàn 81 Biệt cách dù đã rời An Lộc nhưng trước khi đi họ đã xây dựng khu nghĩa trang tươm tất hơn, có đài tưởng niệm khắc hai câu thơ huyền thoại: “An Lộc địa sử lưu chiến tích-Biệt cách dù vị quốc vong thân.” Hình chụp từ sách của Lê Đắc Lực

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu được tướng Lê Văn Hưng lái xe Jeep đưa đi thăm thị xã An Lộc, lúc ông đứng trên Đại lộ Hoàng Hôn địch quân đã pháo một lượt đạn vào An Lộc. Ông Nguyễn Văn Thiệu cười và nói đấy là họ chào mừng tôi. Tất nhiên vị nguyên thủ quốc gia đã không quên viếng thăm nghiã trang Biệt Cách Dù bên hông chợ nhỏ An Lộc. Thời gian này, Liên đoàn 81 Biệt cách dù đã rời An Lộc nhưng trước khi đi họ đã xây dựng khu nghĩa trang tươm tất hơn, có đài tưởng niệm khắc hai câu thơ huyền thoại: “An Lộc địa sử lưu chiến tích-Biệt cách dù vị quốc vong thân.”

Công việc của tôi trong chuyến đi đặc biệt ngày 7/7/1972 là tường thuật tại chỗ ghi âm ngay từ khi trực thăng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đáp xuống bãi B15. Tường thuật liên tục ngoại trừ những khi Tổng thống phát biểu. Tôi được lệnh khi về Đài chỉ cắt đi những đoạn trống và cho phát ngay trên Hệ thống Truyền thanh toàn quốc. Đi cùng với tôi có một Cameramen và bên Đài Truyền hình được chỉ thị sử dụng toàn bộ bài tường thuật tại chỗ của tôi và hình ảnh lồng theo đó.

Địch quân đã không chiếm được An Lộc để làm Thủ đô cho MTGP, nhưng thị xã hoang tàn đổ nát này vẫn chưa hết nguy hiểm. Ngày 9/7/1972, sau chuyến đi của Tổng thống Thiệu hai ngày, tướng một sao Richard Tallman của Quân đội Hoa Kỳ đã tử thương tại bãi B15 vì đạn pháo kích, ngay khi ông vừa rời trực thăng. Ông là vị tướng cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ tử trận trong chiến tranh Việt Nam.

Vì sao CS không thể chiếm An Lộc?

Tại sao, với quân số 4 sư đoàn có xe tăng, pháo binh, pháo phòng không yểm trợ mà quân cộng sản Bắc việt lại không thể chiếm được An Lộc hoặc buộc quân tử thủ phải đầu hàng? Cựu Trung tá Bùi Quyền vào tháng 4/1972 mang cấp bậc Thiếu tá Trưởng ban 3 hành quân của Lữ đoàn 1 Nhảy dù, đơn vị tăng viện trực tiếp chiến đấu bên trong An Lộc. 40 năm sau khi giã từ vũ khí, cựu Trung tá Bùi Quyền từ Bắc California Hoa Kỳ nhận định:

“Giữ cho được phần đất của mình đấy là quan niệm cuối cùng của người lính. Khi đã ở trong đó rồi thứ nhất lệnh của ông Tổng tư lệnh là giữ cho bằng được… chết hết thì thôi và người dân cũng chấp nhận như vậy vì người ta không có lối chạy, còn quân đội bắt buộc phải ở tại chỗ rồi. Địch quân có thể tính lầm chuyện họ nghĩ với bom đạn pháo kích như vậy thì người lính sẽ nao lòng, sẽ phải bỏ ngũ mà họ quyên rằng, bỏ ngũ cũng chết vì ra khỏi cái hố của mình thì có thể chết rồi. Đó là lý do mà dân cũng như quân đều chấp nhận. Có những người dân thuần túy như nhân dân tự vệ mấy em trong đó họ cũng cầm súng họ đánh như thường vì biết rằng không đánh thì cũng chết…Đó là lý do chính còn những danh dự trách nhiệm thì nó hơi cao, thực sự lúc đó trước cái chết thì ai cũng phải chống cự để mà sống. An Lộc vững là vì thứ nhất quân ở trong đó thừa lệnh giữ và thứ hai nữa là trên phương diện chiến trường địch bao vây chung quanh ra rồi còn chết dễ hơn ở trong đó.”
Chiến trường An Lộc 1972. Hình chụp từ sách của Lê Đắc Lực

 


Với 7 trận tấn công thẳng vào An Lộc trong hai tháng 4 và 

5/1972 quân CSBV tổn thất 27 xe tăng bên trong thị xã. Trong hồi ký “Trận An Lộc 93 ngày”, Cựu Chuẩn tướng Mạch Văn Trường kể lại trong trận tấn công đầu tiên vào An Lộc ngày 13/4/1972 địch quân đã bị tổn thất 15 chiến xa, 3 chiếc do trực thăng vũ trang Cobra của Hoa Kỳ bắn hạ, còn 12 chiếc khác bị quân trú phòng hạ. Từ Houston Texas cựu Chuẩn tướng Mạch Văn Trường phát biểu:

“Trung đoàn 8 của tôi, lúc đó là Trung đoàn mạnh nhất thành ra ông tướng Hưng giao cho Trung đoàn 8 giữ mặt Bắc là hướng chính địch đánh từ Bắc xuống Nam từ Lộc Ninh xuống An Lộc. Thành ra tôi cũng có ý kiến là bây giờ nếu địch đánh cấp sư đoàn mà địch có chiến xa thì phải đối phó bằng cách nào? Chuyện đối phó bằng ly cách giữa bộ binh và chiến xa chuyện này nếu mà còn có sức để kể thì nghe hay lắm….có nhiều cái đặc biệt lắm tôi rất tiếc không có sức khỏe …”

Trong số các đơn vị VNCH bên trong An Lộc, chỉ có nhảy dù từng thử lửa với chiến xa địch ở mặt trận ngoại biên, tuy nhiên không phải ở mức độ qui mô như trong trận An Lộc.

Cựu Trung tá nhảy dù Bùi Quyền nhận định về sự kiện xe tăng địch quân chạy vào bên trong An Lộc đều bị hạ. Ông nói:

“Đánh xe tăng thì có thể các đơn bị bộ binh ở trong đó họ chưa đánh bao giờ nhưng nhảy dù thì đã đánh với xe tăng nhiều lần, từ Hạ Lào cho tới Cămpuchia…Thực sự cũng không có gì đáng sợ lắm vì nó (xe tăng) chỉ có hỏa lực thôi, nó không có bộ binh đi kèm thì chỉ là những mồi ngon thôi…nó đóng kín và chạy thì có thấy gì đâu, trong An Lộc xe tăng nó bắn nhưng không ngóc được đại bác lên trên cao cho nên ở trên những tầng lầu ‘sút’ nó…thứ hai An Lộc nhỏ lắm, bắn phía sau nó tất cả vũ khí bắn phía sau nó là nó tiêu, hoặc là bắn cháy xích nó thì nó tiêu…An Lộc nhiều hẻm lắm mà dân ở trong đó những toán đi diệt tăng là dân địa phương từ phía sau xịt M72 trúng là nó bị… sau này Mỹ đưa loại hỏa tiền chống chiến xa trang bị trên trực thăng Cobra thì bắn trúng là tiêu.”

Cựu Đại úy Biệt Cách dù Lê Đắc Lực người từng được trực thăng vận vào An Lộc ngày 15/4/1972. Từ Houston Texas nơi quê hương tạm dung, ông Lê Đắc Lực hồi tưởng:

“Từ trước tới nay chúng tôi chưa bao giờ chạm địch mà có chiến xa yểm trợ, là những người chuyên nghiệp trên các mặt trận chúng tôi có giao động một đôi phút đầu tiên thôi. Bọn tôi nhảy vào trong đó thấy được chiến trường lúc đó đã quá bi đát rồi, hơn nữa lại đụng phải chiến xa của địch, chúng tôi rất giao động, nhưng chúng tôi là lực lượng đưa vào để giải quyết và tiếp cứu chiến trường nên tinh thần chiến đấu vẫn vững vàng, dưới quyền chỉ huy của Trung tá Phan Văn huấn chúng tôi đã được tác động rất mãnh liệt và không chùn bước chiến đấu diệt tăng, chúng tôi đã thành công với chiến thuật diệt tăng bằng những quả đạn đại bác nhét TNT vô và dùng con cóc của mìn Claymore để bắt vào đó và đặt trên đường. Khi chiến xa đi qua chúng tôi bấm cho nổ quả đạn, ngoài việc sử dụng XM 202 và M72 chúng tôi sử dụng cách đó rất có hiệu quả, xe tăng địch bị phá hủy và trên đường tạo ra những lỗ hổng lớn xe tăng tới sau không vượt qua được. Nhờ phát kiến của Trung tá Huấn cho nên xe tăng không còn là một trở ngại lớn đối với Liên đoàn 81 Biệt cách chúng tôi.”

Mặt trận An Lộc để lại những ký ức mà tôi không thể quên trong đời phóng viên. Từ việc trực thăng bị bắn rơi ở vành đai An Lộc ngày 29/4/1972 tới dấu ấn 13/6/1972 vào được An Lộc gởi về bài tường trình tại chỗ với cuộc phỏng vấn tướng Lê Văn Hưng và sau cùng là chuyến tháp tùng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vào An Lộc ngày 7/7/1972. Một giai đoạn lịch sử đã kết thúc, nhưng trong giấc ngủ đôi khi tôi nghe tiếng cánh quạt trực thăng phần phật gió và tiếng đạn pháo nổ nháng lên ánh lửa màu da cam.

Nam Nguyên, phóng viên RFA

Trận đánh An Lộc, mùa hè năm 1972 (6) / Website Hưng Việt

Cuối tháng 6, 1972 sau hơn hai tháng An Lộc bị bao vây, Lữ Đoàn 1 Nhẩy Dù, Liên Đoàn 81 Biệt cách Dù đã rút ra để sau đó được chuyển ngay ra chiến trường Quảng Trị để tiến công tái chiếm Cổ Thành tại Thị Xã này, vì VNCH không còn quân trừ bị nữa. Hai Lực Lựơng tinh nhuệ này không có thì giờ nghỉ ngơi tiếp tục ngay sứ mệnh chiền đấu khi tổ quốc lâm nguy. Giữa tháng 6, sau cuộc bắt tay từ Nam lên, từ Bắc xuống của hai đại đội Nhẩy Dù, một từ ngoài vào, một từ trong hàng phòng thủ tiến ra, vài ngàn dân trong thị xã gồm hầu hết phụ nữ, trẻ em, người gìa cả, bị ốm đói thương tật suốt hai tháng bị bao vây đã lên đường tiến ra QL 13 đi bộ xuôi Nam về Chơn Thành, sau nhiều tổn thất nặng do VC chận phá, bắt bớt người, cuối cùng đoàn dân tị nạn thảm thương này cũng về đến bên VNCH, tuy nhiên một số không nhỏ đã nằm xuống vì đạn pháo của VC và kiệt sức. Các trại tị nạn Phú Văn 1,2 được lập ra ở Bình Dương được lập ra cho họ tạm thời cư ngụ. Hơn năm sau đó, một số lớn được đưa lên định cư ở Long Khánh, lập nhà, vườn tược bắt đầu xanh tười thì tháng Tư năm 1975 ập tới, lại một lần nữa đoàn người tị nạn năm nào ở An Lộc lại bị ngập tràn trong máu lửa.


.
 
 
Hầu hết lực lượng của SĐ 5 trấn giữ An Lộc từ trước và trong suốt thời gian Thị Xã bị bao vây đã được rút ra, được thay quân bằng SĐ 18 BB. Còn bộ chỉ huy của Tướng Hưng, Lê văn Hưng lúc này đã được lên một chức từ Nhiệm Chức trong những ngày đầu tử thủ An Lộc, còn nằm lại điều khiển chiến trường và chuẩn bị đón TT Nguyễn văn Thiệu lên thăm thị xã để chính thức cho thấy đại quân VC đã bị thảm bại khi bao vây tiến đánh An Lộc trên hai tháng trời. Chuẩn Tướng Thực Thụ Hưng đã có quân phục mới thẳng nếp, ngôi sao mới, quân phục đẹp nhất trong các hình chụp chung với các cấp lãnh đạo VNCH cao cấp. Tóc hớt cao, mặt trắng trẻo vì ở lâu trong hầm, Tướng Hưng tươi cười hướng dẫn phái đoàn quan sát sự điêu tàn của Thị Xã An Lộc. Nhất tướng công thành, vạn cốt khô của bên VC ngoài xa và cả trong Thị Xã An Lộc gần như bị san bằng với nhiều ngàn quân và dân thị xã đã nằm xuống, quyết chí hy sinh tử thủ chứ không đầu hàng.


Sư Đoàn 1 Không Kỵ của quân đội Hoa Kỳ, lực lượng chính yiểm trợ không chiến và tiếp liệu cho thị xã An Lộc, với những máy bay trực thăng mới nhất cho chiến trường, những phi công gan lì, đã được huấn luyện kỹ càng, thêm nhiều kinh nghiệm chiến trường đã đưa phái đoàn của TT Nguyễn văn Thiệu vào An Lộc trong bí mật được chuẩn bị rất kỹ. Không thấy nói chính xác cách họ đổ xuống như thế nào từ đâu, nhưng có lẽ vẫn có các phị vụ trực thăng lên xuống bãi đáp B15 đầu Thị Xã như thường lệ, chuyện này không có gì khác lạ đối với VC, vì nơi đáp là mặt đường QL 13, nằm giữa hai rừng cao su bên hướng Tây che mặt Xa Cam hay xã Thanh Bình, bên hướng Đông che mặt Đông từ đồi Gió tới, nên khi nghe thấy tiếng động cơ và quan sát thấy trực thăng từ trên mây cao đổ xuống, thì pháo binh VC bắt đầu bắn cầm chừng cầu may vào khoảng đáp này chứ khó điều chỉnh cho chính xác vì không quan sát rõ ràng từng chiếc trực thăng đuợc từ xa.


Ngày 7 tháng 7, sau các chuyến lên xuống của trực thăng tại bãi đáp B-15 ngoài phạm vi Thị Xã để cho pháo binh VC chú ý đến đó như thường lệ, thì một vài trực thăng của SĐ 1 Không Kỵ Hoa Kỳ từ trên cao bất thần đổ xuống Sân Vận Động ngay kế bên Tòa Hành Chánh Bình Long nơi đặt hầm phòng thủ của Tướng Hưng trong suốt cuộc bao vây. Sau đó với xe Jeep, TT Thiệu đã được đi một vòng quan sát Thị Xã và thắp nhang tại Nghĩa Trang của Biệt cách Dù 81, ngay bên cạnh một nhà lồng chợ gần tan nát hết của An Lộc.




Cuộc thăm viếng, thị sát của TT Thiệu đã đánh đấu chính thức sự thất bại của đại quân VC không dứt điểm đuợc thị xã An Lộc, và TT VNCH đẵ đến được nơi này bình an, chính thức coi như Thị Xã vẫn đứng vững trong lãnh thổ của VNCH. Sau đó các trực thăng của SĐ 1 Không Kỵ lại từ trên cao bất ngờ đáp xuống, bốc phái đoàn cao cấp nhất VNCH trở về bộ chỉ huy của SĐ 5 tại Lai Khê, sau đó có bữa picnic khoản đãi để cảm tạ sự hy sinh của đơn vị SĐ 1 Không Kỵ Hoa Kỳ này tại đây. Vào buổi tối cùng ngày, trên chương trình của Đài Truyền Hình, cả nước và chính VC cũng được coi, đã nhìn thấy những hình ảnh kiêu hùng của An Lộc, thấy sự hy sinh nặng nề của quân dân An Lộc, vẫn đứng vững trong cuộc bao vây trên hai tháng trời của đại quân VC. Đây là một chiến thắng về tâm lý chung của toàn lãnh thổ VNCH, làm cho VC bối rối bực mình trong chuyện không ra mắt được thủ đô của MTGPMN là chánh phủ bù nhìn của Bắc Việt, VC dựng lên trong miền Nam


Từ tin tức TT Thiệu đã vào An Lộc thị sát, tưởng thưởng binh sĩ, tuy nhiên những hình ảnh chụp chung với binh sĩ thì lại là các đơn vị của SĐ 18 vừa vào thay thế, chứ không phải các chiến sĩ tiều tụy gần kiệt sức của SĐ 5 và Tiểu Khu Bình Long. Chuyến thăm viếng bất ngờ này của TT Thiệu nằm ngoài vòng dự tính của quân VC, họ vẫn còn đang kiểm soát bầu trời An Lộc bằng phòng không và đại pháo đủ loại, VC bị sự bất ngờ để thoát dịp cho TT VNCH vào An Lộc đi quan sát Thị Xã làm VC mất mặt quá, nên chiến trường An Lộc lại được VC chú ý hơn nữa, tiền sát viên phải quan sát kỹ những lần bay vô thị sát sau đó hơn của bộ chỉ huy quân đội Việt Mỹ, nếu không chiếm được AL, thì VC vẫn có cơ hội bắn pháo trúng các nhân vật quan trọng Việt Mỹ thích vào đây quan sát như TT Thiệu của VNCH đã từng làm..


Cuộc viếng thăm của TT Thiệu đã gây chú ý cho tiền sát viên pháo binh VC, họ được lịnh bám sát hơn nữa không bỏ lơ là các chuyến viếng thăm vào các ngày sau đó, sẽ có các phóng viên, truyền hình, mang hình ảnh đứng vững của An Lộc ra ngoài thế giới. Đúng như vậy, hai ngày sau chuyến thăm của TT Thiệu, vào ngày 9 tháng 7, có một chuyến đi thị sát vào An Lộc của Chuẩn Tướng Mỹ Richard Tallman, tham mưu trưởng cố vấn của Quân Đoàn 3, vừa nhậm chức trước đó sau khi là cố vấn trưởng của SĐ 18 bộ binh VNCH, ông và tùy tùng vào An Lộc thăm SĐ 18, khi trở ra thì bị pháo VC theo dõi từ trước, bắn pháo vào trước khi trực thăng cất cánh tại bãi đáp, gây tử thương cho tướng Tallman, và hai sĩ quan cao cấp Hoa Kỳ cấp tá tháp tùng. Tướng Tallman là vị tướng cuối cùng tử thương trên chiến trường VN. Pháo binh VC đã gây được chiến thắng lớn sau cùng trên An Lộc là gây tử thương cho một tướng lãnh, một Chuẩn Tướng Hoa Kỳ. Như vậy trong chiến dịch đánh An Lộc Bình Long, VC gây tử thương cho Đại Tá Trương Hữu Đức, Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh ở Bắc Chơn Thành bằng súng Phòng Không bắn trúng trực thăng chỉ huy, trên An Lộc thì Pháo Binh VC gây tử thương cho một Chuẩn tướng Hoa Kỳ.


Không ngờ đây là một may mắn của pháo binh VC, tuy nhiên cũng là một sơ hở, một hớ hênh của bên Hoa Kỳ, không dự đoán là cuộc viếng thăm của TT Thiệu từ hai ngày trước đó đã làm cho VC mất mặt, gây chú ý cho pháo binh VC bám sát, quan sát kỹ sự lên xuống của trực thăng trong thị xã hơn. Ngoài ra, toán trực thăng này chắc chắn không đáp ngoài bãi B-15, mà đáp ngay trại B-15, nơi khá cao khá trống trải bị quan sát dễ dàng từ ngoài xa, đáp ở đây thì ngay trong thị xã không phải di chuyển xa. Cỏ lẽ trực thăng vẫn nằm tại chỗ chờ đón ông tướng này đi ra, nên VC có đủ thời gian chấm tọa độ hay là khi đáp xuống đã bị pháo VC rình rập chờ sẵn. Nói chung là cái xui của ông Tallman và là cái may mắn của pháo binh VC, tuy không chiếm được thị xã An Lộc, diệt được Chuẩn Tướng Hưng, nhưng cuối cùng may mắn gây tử thương cho Chuẩn Tướng Mỹ Tallman. Tin tức này hoàn toàn được Hoa Kỳ giữ kín khi đó, chỉ biết Tướng Mỹ này tử thương trên chiến trường VN vì tai nạn trực thăng, chứ không nói rõ ở đâu, mặt trận nào. Cái chết của ông được bên Hoa kỳ ghi nhận là “xui xẻo, không cần thiết” vì Tướng Mỹ này không có nhiệm vụ trên chiến trường An Lộc, ông trước đó là cố vấn của SĐ18, sau về làm tham mưu trưởng cho cố vấn Quân Đoàn 3 là Tướng Hollingsworth, ông Tallman chỉ làm một chuyến bay vào An Lộc cho biết nơi này ra sao thôi nhân dịp có các đơn vị của SĐ18 vào đây thay quân.


Sau đó thì các cuộc viếng thăm An Lộc của các cấp chỉ huy cao cấp Mỹ, vì tò mò hay vì lý do khác, vẫn được an toàn diễn ra, có lẽ vì họ đã thay đổi chiến thuật lên xuống trực thăng, cẩn thận hơn, như Tướng Hollingsworth, cố vấn Quân Đoàn 3, ra vào nhiều lần với các nhân vật cao cấp mà không sao. Trong các bài viết về An Lộc trên Net, tôi có đọc những đoạn, có Sĩ Quan cao cấp không quân VNCH than phiền là có sự thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và VC, các trực thăng Hoa Kỳ sơn trắng dưới đáy để VC không bắn, họ vào ra tiếp tế thực phẩm cho các cố vấn Mỹ mà không sao? . Sự thật ở đây cho thấy trong chiến trường này, không có cấp tướng VNCH nào hy sinh mà chỉ có tướng Mỹ Tallman hy sinh khi đi trực thăng vào An Lộc, ngoài ra có trên 50 nhân viên phi hành, phi công Mỹ tử thương trên An Lộc. Như vậy tỷ lệ thiệt hại nhân mạng của các sĩ quan không quân Hoa Kỳ là cao nhất so sánh với toàn thể các đơn vị VNCH tham chiến. Chưa kể vào ngay ngày đầu trận Lộc Ninh, trung tá cố vấn trưởng Hoa Kỳ tự sát sau khi bị thương nặng và các sĩ quan cố vấn khác cũng tử thương hay bị bắt sống, sau này mới được trao đổi tù binh sau hiệp định Paris.


Còn nhìn sơn trắng dưới đáy trực thăng Mỹ mà bắn hay không bắn, thì ai từng cầm súng, nhìn lên trời chói sáng, nghe tiến trực thăng đến vù vù, có thể cùng với đại liên và hỏa tiễn từ trên bắn xuống tới tấp đỏ rực thì ở đó mà còn có thời giờ phân biệt được chiếc trực thăng có sơn trắng bên dưới hay không ?. Tại sao VC không bắn những trực thăng lẻ tẻ mà pháo ngay trực thăng của tướng Tallman khi ông này sửa soạn trở ra cất cánh khỏi An Lộc. Chẳng qua là VC ngáp trúng ruồi, còn từ trên trời cao, máy bay ào ào phóng qua thời gian chì vài giây, ở đó mà phân biệt được chiếc nào là ruồi cái, chiếc nào là ruồi đực, để mà không bắn, tất cả đều bị VC bắn hết. Chẳng qua, máy bay Mỹ, sĩ quan Mỹ, họ học bay từ Mỹ, dĩ nhiên tiếng Mỹ là tiếng mẹ đẻ họ, ở đây là sĩ quan Mỹ bay giỏi hơn, trình độ sĩ quan Mỹ phải tốt nghiệp đại học, máy bay họ được bảo trì tốt hơn, bay giỏi hơn, nhát gan hơn nên bay cẩn thận hơn và họ là thầy dậy bay cho các phi công VNCH, cho nên tỷ lệ họ bị bắn hạ dĩ nhiên ít hơn, vì số lượng máy bay tham dự của họ có thể ít hơn, hay chính họ có nhiều chiến thuật, kỹ thuật khác lạ hơn. Dẫu sao chính họ đã phát minh ra trực thăng, bay giỏi hơn, phát minh ra chiến thuật, chiến lược rồi mới truyền lại cho học trò phi công VNCH, có giới hạn về tiếng Mỹ, giới hạn về bảo trì, thì Không Quân VNCH cứ than là thiệt hại của mình cao hơn, hay VC có thỏa thuận không bắn vào trực thăng Mỹ. Thấy thiệt khôi hài, cái chết của tướng Tallman đã trả lời cho chuyện này.


Các máy bay của không lực Mỹ thường sơn trắng bên dưới, vì khi nhìn từ dưới lên, máy bay sẽ lẫn với mây trắng đó là yếu tố ngụy trang, nhìn từ trên xuống thì họ sơn mầu rằn ri ngụy trang lá cây để nhìn từ trên xuống thì lẫn với cây rừng. Còn trực thăng thì có khi sơn cả máy bay mầu xám hay trắng nhạt, dùng cho các chuyến tải thương hay phi vụ đặc biệt, còn đa số trực thăng Mỹ đều sơn xanh lá cây đậm mầu Olive đậm toàn thân y như những trực thăng chuyển giao cho không lực VNCH. Còn pháo thủ cao xạ bắn trực thăng, thì nguyên tắc phải bắn từ xa, bắn chận đầu trước khi máy bay tới, nên lúc đó khó mà thấy hay phân biệt được mầu sơn trắng dưới đáy vì rất nhỏ, lại từ xa, thường thì thấy ngang hông trực thăng là nhiều nhất, lúc đó là khai hỏa bắn chận đầu rồi, ít khi đợi trực thăng đến ngay đỉnh đầu mới bắn. nên chuyện quan sát được mầu trắng trực thăng Mỹ để không bắn, cho rằng phi công Mỹ bay vào An Lộc dễ hơn phi công VN, là chuyện khó tin. Ngoài ra các trực thăng chiến đấu Cobra Mỹ cũng bắn hỏa tiễn hạ rất nhiều tăng VC, như vậy không lẽ VC chịu chết, vẫn tránh bắn vào trực thăng Mỹ. Chiến trường hai bên đều cố giết nhau mà có chuyện tránh bắn trực thăng này. Chưa kể số sĩ quan phi công Mỹ bị hy sinh không nhỏ, nếu so với số lượng của phi công VN tham chiến trong trận An Lộc. Chưa kể lúc đó, Mỹ đang dội bom miền Bắc của VC để trả đũa các trận tiến xâm chiếm ở Miền Nam, kéo dài tới tận tháng 12, 1972, Mỹ dội B52 vào tận Hải Phòng và Hà Nội. Ở đó mà phòng không VC tha sống cho trực thăng Hoa Kỳ.


Còn giữa Người Pháp điều hành các đồn điền Cao Su trên tỉnh Bình Long và quanh An Lộc thì quan hệ giữa họ và VC đã có nhiều dàn xếp thỏa hiệp qua nhiều năm trong cuộc chiến. Họ đóng thuế, chi tiền, cung cấp nhiều thứ cho VC, xe đồn điền, phi cơ của người Pháp thường sơn mầu trắng và người Pháp cũng chuyên mặc đồ trắng khi hoạt động ở đây. Trong trận An Lộc cũng có một số người Pháp kẹt trong An Lộc, chịu pháo và cũng di tản ké máy bay trực thăng để ra khỏi An Lộc hay đi bộ thoát về nơi an toàn.



Nói chung là như vậy, nói riêng có thể có vài cá nhân hay nhiềuphi công VNCH bay rất giỏi và can đảm phi thường hơn phi công Mỹ, nhưng đừng nói ai không sợ chết, ai cũng sợ chết hết, nhưng ai can đảm hơn rời bỏ xứ Mỹ an lành bỏ gia đình êm ấm giầu có đi nửa vòng trái đất để chết trên cái xứ VN, có ai từ chối không bay vào An Lộc, không. Thành ra ông sĩ quan không quân VNCH nào, phi công nào đặt ra chuyện trên là điều lố bịch. Có nhiều phi công Mỹ chết mất xác, mà nhiều năm sau này mới tìm ra. Có nhiều quân nhân Mỹ ngày nay vẫn còn mất tích. Còn dĩ nhiên ở miền Nam, cũng có đầy người trốn lính, con ông cháu cha lính kiểng, chạy tiền không dám chiến đấu. Dĩ nhiên không phải sĩ quan Mỹ nào cũng can đảm, toán cố vấn Mỹ do một Trung Tá Mỹ cầm đầu đã từ chối theo Trung Đoàn 8 / SĐ5 vào An Lộc những ngày 10, 11 tháng 4 … vì sợ chết. Đó là toán cố vấn nhát gan nhất không dám tham dự trận chiến An Lộc. Trong suốt trận bao vây An Lộc sau Lộc Ninh, không có một cố vấn Mỹ nào tử trận, các toán cố vấn Mỹ đều được các binh sĩ trú phòng của VNCH bảo vệ an toàn.


Còn thiệt hại bên hàng ngũ chỉ huy cao cấp của VC ra sao ? chuyện này không bàn, vì VC không có tư cách … miễn sao chiến thắng là được, lính tráng, sĩ quan không đeo lon lá, không đeo tên, phải dùng bí danh, dấu tên thật như mèo dấu cứt, không quân số, ngay cái tên đảng CS cũng phải lừa bịp đổi thành đảng Lao Động cho khỏi có mùi CS quốc tế, để lừa bịp ai ngây thơ, tao đâu phải CS , có chữ CS nào đâu chỉ Lao Động thôi, sau 75, thắng xong thì lại Cộng Sản tuốt, thì chuyện gian manh láu cá, gian xảo là cách hành xử chung của CS, của VC nên không so sánh chuyện này. Quân VNCH và Hoa Kỳ theo đúng hiệp định quốc tế Geneve, có số quân, có quân phục, đeo tên, đeo lon lá chức vụ khi tham chiến, giống như truyện Tầu Tam Quốc Chí, tướng lãnh nói chuyện chào nhau trước khi tham chiến, không cần hèn hạ gian manh đá cá lăn dưa. Ai tử trận thì đều loan báo cho dù chức vụ cao tới đâu, gia đình làm lễ an táng công khai với lễ nghi có hình ảnh, đăng cáo phó trên báo chí tự do, phân ưu được thông báo đầy đủ, không cần phải dấu diếm. Hai cách hành sử khác nhau dựa trên hai nền tảng đạo đức khác nhau nên không bàn, không cần bàn thêm giữa thủ đoạn của VC, của các xứ CS (hay chỉ có VC, mới không dám đeo lon cấp bậc và xưng tên tuổi thật) và cách hành xử của các xứ Dân Chủ khác.


Kết luận của trận An Lộc, quân phòng thủ An Lộc đứng vững được là do tướng Hưng lên An Lộc với bộ chỉ huy SĐ 5 sau khi Lộc Ninh thất thủ, thay vì không vào An Lộc như SĐ 3 chạy ra khỏi Quảng Trị, do sự can đảm anh dũng của quân dân trú phòng, do sự anh dũng hy sinh của các lực lượng tiếp viện, và quan trọng nhất là do sự yiểm trợ tối đa và hy sinh cao của lực lượng không quân Việt Mỹ, nhất là phía Hoa Kỳ đã cung cấp mọi phương tiện kỹ thuật tiếp liệu cần thiết và không ngần ngại chịu sự hy sinh. Cho nên khi qua lần tấn công đầu năm 1975 để thăm dò của VC, khi thấy người Mỹ không trở lại chiến trường VN cho dù chỉ bằng không lực như B52 và tiếp liệu dồi dào thì VC tấn công thẳng luôn bằng các yiểm trợ tối đa của khối CS quốc tế đã tích lũy từ sau 72 tới 75. Trận tiến công sau cùng của VC chưa tới hai tháng, không so sánh được với trận An Lộc, VC đã xâm chiếm được trọn Miền Nam, Cộng Sản Quốc Tế đã cưỡng chiếm được được mảnh đất Tự Do, Miền Nam Việt Nam.

An Lộc đứng vững sau trận chiến hè 72, tuy nhiên chỉ còn là một ốc đảo, tiếp liệu di chuyển vào chỉ bằng trực thăng, còn đường bộ thì VC vẫn đóng chốt không khai thông được. VC tuy thất bại vào năm 72, nhưng đã học được bài học rằng chiến trường sẽ được quyết định bằng không quân Hoa Kỳ, khi không có Hoa Kỳ nữa, sau hoà đàm Paris, coi như phía Hoa Kỳ đã bán đứng Miền Nam Việt Nam, họ đã lấy lại được tất cả tù binh, bắt tay thỏa thuận ngầm với Trung Cộng, chia đôi được khối CS quốc tế, không có sự đoàn kết Nga Xô – Trung Cộng nữa, thì lần lần Mỹ sẽ phá vỡ toàn chủ nghĩa CS quốc tế do Nga Xô cầm đầu trên thế giới. Chiến trường VN chỉ là một chiến trường qúa nhỏ bé trên chiến lược toàn cầu to lớn của Mỹ. Sau chiến thắng 75 ở VN, khối cộng sản quốc tế do Nga cầm đầu tiến lên chuẩn bị biến toàn Đông Nam Á thành CS, Nga phải chi viện lớn hơn cho chư hầu VC vừa chiến thắng toàn xứ VN. Sau nhiều năm phải chi phí cao như vậy cho khối CS quốc tế, trong khi Nga phải ngửa tay xin được mua lúa mì của đối thủ Hoa Kỳ thì đến 1991, cộng sản Nga phải phá sản hết tiền và tự tan vỡ. Cuối cùng thì xứ Mỹ là xứ Mỹ, họ phục vụ quyền lợi người Mỹ trước. Mục tiêu của Hoa Kỳ sau thế chiến thứ 2 là đánh gục chủ nghĩa Cộng Sản, Mỹ chỉ làm điều có lợi cho họ, Mỹ đến VN là vì có CS Nga, CS Tầu đang xâm lấn nuôi dưỡng bành trướng chủ thuyết CS ở đây từ những năm 1920’s, nên khi Mỹ không cần phải có mặt tại VN nữa, ngay cả ở Phi Luật Tân, một thuộc địa cũ của Mỹ, mà họ cũng bỏ các căn cứ quân sự cuối cùng vào thập niên 1980’s, thì Hoa Kỳ không cần tốn tiền duy trì ảnh hưởng ở Miền Nam VN nữa. Việt Nam chỉ là một chiến trường cho Mỹ huấn luyện quân, tự do thử súng đạn vũ khí mới, so tài với vũ khí của cộng sản Nga-Tầu.

Chuyện đất nước VN, xứ sở VN, có định mệnh riêng của nó. Tôi viết về An Lộc là vì để cho An Lộc sống mãi trong lịch sử, cho những kỷ niệm gắn bó, một thời ấu thơ lớn lên có trí nhớ bắt đầu ở đây, An Lộc của tôi với một trời ấu thơ đầy kỷ niệm được giữ lại bằng các bài viết trong đây, xin giữ lại chút lịch sử trung thực hơn cho tất cả những ai đã có một lần gắn bó đến mảnh đất nhỏ bé này, nơi rừng thiêng nước độc, của một góc trời xa vắng không xa Saigon là mấy, nhưng ít ai biết đến trước khi trận An Lộc xầy ra … Từ nơi rất xa An Lộc, tôi viết cho những người đã nằm xuống:

An Lộc Địa, Sử ghi chiến tích
Biệt Cách Dù vị quốc vong thân

Ngày 30 tháng 4, 2012.

Duongtiden

Nguồn https://kientruc5sj.wordpress.com/2014/09/03/chien-truong-an-loc-mua-he-nam-1972-tiep-theo-bai-11-den-hoi-ket-thuc-by-duongtiden/

Tiếp đến là những bài phụ lục của An Lộc với các chi tiết chưa từng được ai để tâm tới, lần lượt sẽ đưa lên với rất nhiều hình ảnh của An Lộc mà ít ai nhìn thấy trước đây.


” other wrtting of An Loc battle on internet …quoted …:
Về trực thăng tiếp tế và tản thương.

– Tất cả các trực thăng tiếp tế cũng như tản thương của Không Lực Việt Nam Cộng Hoà đều không thể đáp xuống mặt trận An Lộc trong thời gian cuộc chiến đang sôi động . Dư luận của các cố vấn Mỹ cho là phi công Việt Nam Cộng Hoà nhát gan, sợ phòng không địch nên không muốn đáp xuống trận địa. Trong lúc đó thì phi cơ trực thăng tiếp tế của Hoa Kỳ vẫn đáp lên xuống đều đặn, đem đồ tiếp tế cho các cố vấn Mỹ của Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà và Tiểu Khu Bình Long, không chiếc nào bị phòng không Cộng Sản Bắc Việt ngăn cản.

– Theo lời tường thuật của Thiếu Tá Nguyễn Văn Ức đại diện Sư Đoàn 3 Không Quân Việt Nam Cộng Hoà, đích thân quan sát, đàm thoại và chứng kiến tận mắt, , cho biết : Sở dĩ trực thăng Mỹ được ra vào An Lộc một cách an toàn, là vì phía dưới luờn của trực thăng Mỹ và các mũ phi hành của tất cả phi hành đoàn, đều có sơn màu trắng, thay vì màu olive như các đơn vị Trực Thăng tác chiến của Việt Nam Cộng Hoà.

Như vậy, câu hỏi được đặt ra là, phía đồng minh Hoa Kỳ có đường giây bí mật nào liên lạc với địch quân , để nhận được một thoả hiệp như thế hay không? …. un quote … “”

Nguồn Website Hưng Việt