Aloha All.....was honored to accompany LtCol. Craig Mandeville
last evening, to the Anniversary Reunion for those that served and
survived, the "Seige of An Loc." This battle was the largest of the
Vietnam War, lasting 66 days, during the Easter Offensive in '72, where
thousands died and thousands more were wounded on both sides. The story
is incredible and my brother, LtCol Mandeville was a hero of that
battle. He was an advisor to the 9th ARVN Division that relieved the seige,
earning him a second Silver Star to accompany his Legion of Merit,
Bronze Star and five Purple Hearts. We were honored to sit at the VIP
table with the son of another hero of that battle, General Tran Van
Nhut, where both of us spoke at his Memorial Service, last January 2015
at his passing. Craig served with General Nhut during this battle,
destroying numerous NVA tanks. Chris and his beautiful family, wife
Catherine, who speaks with an Australian accent, as she was raised in
"down under", after the Fall of Saigon, and his two beautiful daughters,
Jackie and Patty. The last three pictures are of General Nhut, Chris
and his family. A wonderful reunion of true warfighters gathered
together for camaraderie and a remembrance for those fellow soldiers
lost in this famous battle. Outstanding Vietnamese dishes as always and
the entertainment was flawless, emotionally moving at times and just
beautiful. Another awesome event with my Vietnamese, "Band of Brothers
and Sisters," and where like my Marines, I was volunteered to serve on
the committee for next years Tet Parade, with the Chair of that
Committee and my personal friend, City Councilman, Phat Bui. I missed you my brother Hoa Pham, but we will get together soon. Ooooooorah and Semper Fi. Monsoon
An Lộc Battle
Saturday, July 9, 2016
Saturday, June 18, 2016
The Battle Of An Loc by James H. Willbanks
Main Selection of Military Book Club
Army Historical Society Book of Distinction finalist
Army Historical Society Book of Distinction finalist
With
the knowledge born of firsthand experience, James H. Willbanks tells
the story of the 60-day siege of An Loc. In 1972, late in the Vietnam
War, a small group of South Vietnamese held off three North Vietnamese
divisions and helped prevent a direct attack on Saigon. The battle can
be considered one of the major events during the gradual American exit
from Vietnam. An advisor to the South Vietnamese during the battle,
Willbanks places the battle in the context of the shifting role of the
American forces and a policy decision to shift more of the burden of
fighting the war onto the Vietnamese troops. He presents an overview of
the 1972 North Vietnamese Easter Offensive, a plan to press forward the
attack on U.S. and ARVN positions throughout the country, including Binh
Long province and Saigon. The North Vietnamese hoped to strike a
decisive blow at a time when most American troops were being withdrawn.
The heart of Willbanks’s account concentrates on the fighting in Binh
Long province, Saigon, and the siege of An Loc. It concludes with a
discussion of the Paris peace talks, the significance of the fighting at
An Loc, and the eventual fall of South Vietnam.
James
H. Willbanks is General of the Army George C. Marshall Chair of
Military History and director of the department of military history at
the US Army Command and General Staff College in Leavenworth, Kansas.
His books include A Raid Too Far: Operation Lam Son 719 and Vietnamization in Laos, The Tet Offensive: A Concise History, and Abandoning Vietnam.
"The Battle of An Loc
could only be written effectively by a participant, and Willbanks was
present as an advisor to an ARVN unit. But this is not just an
eyewitness account. Utilizing newly discovered archival evidence and
recently translated North Vietnamese after-action reports, Willbanks has
reconstructed . . . the nearly three-month long siege . . . to answer
the question that has plagued military historians since the war ended:
was the Army of the Republic of Vietnam an effective fighting force? . .
. A fine book with rich, vibrant descriptions of combat, weapons, and
command decisions. Willbanks writes from an insider's perspective [with]
the discipline of a historian who knows what questions to ask." —H-Net Reviews
"An informative and consuming account. It is an engrossing read . . . for those who want to understand the battle of An Loc itself, the state of the war in 1972, and the sacrifices of those who advised the ARVN during the war's final years. A must-read for those who think the Vietnam War was only about defeating a jungle insurgency." —HistoryNet
"An informative and consuming account. It is an engrossing read . . . for those who want to understand the battle of An Loc itself, the state of the war in 1972, and the sacrifices of those who advised the ARVN during the war's final years. A must-read for those who think the Vietnam War was only about defeating a jungle insurgency." —HistoryNet
List of Figures
List of Maps
List of Photos
Preface
Acknowledgments
Introduction
List of Abbreviations
1. Prelude to Battle
2. The Nguyen Hue Campaign
3. The Area of Operations
4. The Battle of Loc Ninh
5. The Opening Battle for An Loc
6. Second Attack on An Loc
7. NVA High Tide
8. The Fight for Highway 13
9. Breaking the Siege
10. Evaluating the Battle of An Loc
11. Aftermath
Epilogue
Appendix 1. Order of Battle
Appendix 2. Presidential Unit Citation, 229th Aviation Battalion
Appendix 3. Presidential Unit Citation, Advisory Team 70
Notes
Bibliography
Index
List of Maps
List of Photos
Preface
Acknowledgments
Introduction
List of Abbreviations
1. Prelude to Battle
2. The Nguyen Hue Campaign
3. The Area of Operations
4. The Battle of Loc Ninh
5. The Opening Battle for An Loc
6. Second Attack on An Loc
7. NVA High Tide
8. The Fight for Highway 13
9. Breaking the Siege
10. Evaluating the Battle of An Loc
11. Aftermath
Epilogue
Appendix 1. Order of Battle
Appendix 2. Presidential Unit Citation, 229th Aviation Battalion
Appendix 3. Presidential Unit Citation, Advisory Team 70
Notes
Bibliography
Index
Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân: Đại Tá HỒ NGỌC CẨN (Phạm Phong Dinh)
Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân
Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn
Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Chương Thiện
“Nếu
tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết
án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi
cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do
của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội
tôi. Lịch sử sẽ phê phán xét đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy.
Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo cộng sản.
Việt Nam muôn năm.” – Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn (24-3-1938 14-8-1975)
Tên tuổi của
Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã bắt đầu lừng lẫy từ khi ông còn là một sĩ quan
cấp Úy phục vụ trong binh chủng Mũ Nâu Biệt Động Quân ở Miền Tây. Các
cấp chỉ huy Biệt Động Quân trong thời điểm đầu những năm 1960 đã để ý
nhiều đến tân Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn, Trung Đội Trưởng BĐQ, về những hành
động quả cảm đến phi thường trong những cuộc giao tranh. Người Trung Đội
Trưởng trẻ mới có 22 tuổi đời đã đứng xõng lưng dẫn quân Mũ Nâu xung
phong lên đánh những trận long trời trên chiến trường đồng bằng sông Cửu
Long. Những chiếc lon mới nở nhanh theo cùng với những chiến thắng. Chỉ
trong vòng bốn năm, Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn đã được vinh thăng lên đến cấp
bậc Đại Úy và được điều về làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung
Đoàn 33 của Sư Đoàn 21 Bộ Binh “Tia Sét Miền Tây”. Lúc đó trên lãnh thổ
Vùng 4 Chiến Thuật đã nổi lên những khuôn mặt chiến binh dũng mãnh mà
đã đƯợc ca tụng là những con mãnh hổ miền Tây, Đại Úy Hồ Ngọc Cẩn có
vinh dự nằm trong số năm vị này. Những vị còn lại gồm những tên tuổi như
sau:
– Thiếu Tá Nguyễn Văn Huy, Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân.
– Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân.
– Thiếu Tá Lê Văn Dần, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân.
– Thiếu Tá Lê Văn Hưng, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 31, SĐ21BB.
– Thiếu Tá Vương Văn Trổ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 33, SĐ21BB.
Thật ra bản
danh sách này chỉ có tính cách ước lệ và tượng trưng, đâu phải một Miền
Tây rộng bát ngát mà chỉ có vỏn vẹn có năm người hùng. Mỗi người lính
của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa xứng đáng được vinh danh là những anh
hùng, vì những đóng góp máu xương quá lớn cho tổ quốc.
Đại Tá Hồ
Ngọc Cẩn sinh ngày 24.3.1938 tại xã Vĩnh Thạnh Vân, Rạch Giá. Thân phụ
của ông là một hạ sĩ quan phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam (danh
xưng của quân đội trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa, dưới sự lãnh đạo của
Tổng Thống Ngô Đình Diệm). Đại Tá Cẩn không may sinh ra và lớn lên trong
thời buổi chiến tranh, nên khi lên bảy tuổi ông sắp sửa cắp sách đến
trường, thì chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, việc học của ông bị gián
đoạn. Mãi hai năm sau, tức vào năm 1947 ông mới được đi học lại, sau khi
tình hình ở các thành phố trở lại yên tĩnh, quân Việt Minh rút về các
chiến khu, quân Pháp chiếm đóng các thành phố. Cậu bé Cẩn học muộn đến
những hai năm, khi ông học tiểu học được bốn năm thì thân sinh của cậu
quyết định xin cho cậu nhập học Trường Thiếu Sinh Quân Gia Định. Có lẽ
vị thân sinh của người đã nhìn thấy được những dấu hiệu, những nảy nở
của tinh thần và ý hướng, mà sau này sẽ hướng người vào con đường binh
nghiệp, sẽ làm nên những công nghiệp lớn có ích lợi cho đất nước
Cuộc đời đèn
sách trễ nải của chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn, lúc này đã 17 tuổi, đã
ngáng bước đi lên về mặt văn hóa. Theo học quy của Trường Thiếu Sinh
Quân, một học sinh ở độ tuổi 17 chưa học xong Đệ Ngũ, sẽ được gửi đi học
chuyên môn. Vì vậy chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn được trường gửi lên
Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức học khóa chuyên môn CC1 Vũ Khí. Trong lớp
văn hóa hồi ở Trường TSQ, ông chỉ ở mức trung bình, nhưng sau ba tháng
học ở Thủ Đức, chàng trai trẻ lại đậu hạng ưu. Ông được cho học thêm
khóa chuyên môn vũ khí bậc nhì CC2. Sau khóa học này ông quyết định đăng
vào phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, với cấp bậc Binh Nhì.
Theo quy chế dành cho các Thiếu Sinh Quân, thì ba tháng sau, Binh Nhì Hồ
Ngọc Cẩn sẽ được thăng lên Hạ Sĩ, ba tháng kế tiếp được lên Hạ Sĩ Nhất
và ba tháng sau nữa được thăng Trung Sĩ. Trong vòng chín tháng kế tiếp,
với khả năng ưu hạng về môn vũ khí, Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được chọn làm
huấn luyện viên vũ khí cho trường.
Cuộc đời làm
huấn luyện của ông những tưởng êm đềm trôi và tài năng quân sự của
người sẽ bị mai một trong một ngôi trường khiêm tốn. Nhưng định mệnh đã
dành cho người anh hùng một vị trí xứng đáng trong quân đội và những cơ
hội thi thố tài năng, mà sau này được mọi người truyền tụng lại như là
những huyền thoại, để phục vụ và bảo vệ tổ quốc. Tình hình quân sự ngày
càng nghiêm trọng cho một quốc gia non trẻ và một quân đội còn tập tễnh
kinh nghiệm chiến đấu, sĩ quan chỉ huy thiếu hụt. Bộ Quốc Phòng quyết
định mở các khóa Sĩ Quan Đặc Biệt bắt đầu từ năm 1962 để cung cấp thêm
sĩ quan có khả năng cho chiến trường và nâng đỡ những Hạ Sĩ Quan có ước
vọng thăng tiến. Một may mắn lớn cho Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn, mà cũng là
may mắn cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham
Mưu Trưởng Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, một cựu Thiếu Sinh Quân, đã nâng
đỡ cho các đàn em TSQ. Những Thiếu Sinh Quân không hội đủ năm năm quân
vụ và có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp vẫn được cho đi học Khóa Sĩ Quan Đặc
Biệt. Hơn nữa, dường như Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Đại Tướng Lê Văn
Tỵ có mật lệnh, các tân Chuẩn Úy xuất thân từ Thiếu Sinh Quân đều được
đưa về các binh chủng thiện chiến hay đặc biệt như Nhảy Dù, Thủy Quân
Lục Chiến, Thiết Giáp, Biệt Động Quân, Quân Báo, An Ninh Quân Đội, Lực
Lượng Đặc Biệt. Tổng Thống Diệm và Đại Tướng Tỵ cũng không quên gửi
những Thiếu Sinh Quân tốt nghiệp Tú Tài vào học các Trường Cao Đẳng Sư
Phạm và Y Khoa để có nhân tài phục vụ xã hội và huấn luyện lại cho những
thế hệ tuổi trẻ kế tiếp. Đặc biệt nhiều Thiếu Sinh Quân cũng được cho
vào học Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt để làm nền tảng cho cái xương sống
chỉ huy chuyên nghiệp trong hệ thống quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
Trung Sĩ Hồ
Ngọc Cẩn được cho theo học Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch tại Trường Hạ Sĩ
Quan QLVNCH, Đồng Đế, Nha Trang. Các tân Chuẩn Úy Đặc Biệt, trong đó có
Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn tung cánh đại bàng bay đi khắp bốn phương và sau
này đã trở thành những sĩ quan tài giỏi nhất của quân lực, lưu danh quân
sử. Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn được thuyên chuyển về Biệt Động Quân Vùng 4
Chiến Thuật Miền Tây, sau một khóa học Rừng Núi Sình Lầy của binh chủng
Mũ Nâu. Lúc đó các đại đội BĐQ biệt lập theo lệnh của TT Diệm, đã được
cải tổ và sát nhập thành các tiểu đoàn. Khu 42 Chiến Thuật gồm lãnh thổ
các tỉnh Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên, Bạc Liêu và An Xuyên, có
hai tiểu đoàn BĐQ, mà lại là hai tiểu đoàn lừng lẫy nhất của binh chủng.
Đó là Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân “Cọp Ba Đầu Rằn”, và Tiểu Đoàn 44
Biệt Động Quân “Cọp Xám”. Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn nhận sự vụ lệnh trình
diện Tiểu Đoàn 42 BĐQ và làm Trung Đội Trưởng. Khả năng quân sự thiên
bẩm, tài chỉ huy và sự chiến đấu hết sức gan dạ của Chuẩn Úy Cẩn, mà đã
đem nhiều chiến thắng vang dội về cho TĐ42BĐQ, được thăng cấp đặc cách
nhiều lần tại mặt trận, đã nhanh chóng xác nhận Trung Úy tân thăng
Hồ Ngọc Cẩn
có khả năng chỉ huy tiểu đoàn. Trung Úy Cẩn được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn
Phó Tiểu Đoàn 42BĐQ, đặt dưới quyền chỉ huy của một chiến binh lừng lẫy
và nhiều huyền thoại không kém gì Trung Úy Hồ Ngọc Cẩn. Thiếu Tá Lưu
Trọng Kiệt, xuất thân từ Sư Đoàn 21 Bộ Binh, với tác phong chiến đấu
dũng cảm làm quân giặc kiêng sợ và thuộc cấp kính phục. Cung cách đánh
giặc như vũ bão của Trung Úy Cẩn còn được nhân lên thập bội, khi lời yêu
cầu của ông lên cấp chỉ huy xin cho các chiến binh gốc Thiếu Sinh Quân
được về chiến đấu chung với ông. Lời yêu cầu này được thỏa mãn một phần,
nhưng cũng đủ để cho Trung Úy Cẩn có thêm được sức mạnh cần thiết. Có
lần ông tâm sự với một người bạn lý do này: “Một là để dễ sai. Tất cả
bọn cựu Thiếu Sinh Quân này đều ra trường sau tôi. Chúng là đàn em, dù
tôi không phải là cấp trên của chúng, mà chúng nó lộn xộn, tôi vẫn hèo
vào đít chúng nó được. Nay tôi muốn chúng nó về với tôi, để tôi có thể
dạy dỗ chúng nó những gì mà quân trường không dạy. Hai là truyền thống
của tôi khi ra trận là chết thì chết chứ không lùi. Vì vậy cần phải có
một số người giống mình, thì đánh nhau mới đã. Bọn cựu Thiếu Sinh Quân
đều như tôi”.
Một câu
chuyện dũng cảm và cảm động khác kể về Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung Đoàn
Trưởng Trung Đoàn 15 Bộ Binh tại mặt trận An Lộc năm 1972. Trong khi
quân của Trung Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh bị pháo địch nã hàng ngàn
quả ghìm đầu xuống trong những hố cá nhân bên đường Quốc Lộ 13 gần thị
xã An Lộc, thì binh sĩ trung đoàn ngạc nhiên lẫn cảm kích khi thấy vị
Trung Đoàn Trưởng của họ dẫn vài người lính cũng quả cảm như vị chỉ huy
điềm tĩnh đi thẳng lưng dưới cơn hỏa pháo cường kích như bão lửa của Sư
Đoàn 7 Bắc Việt từ công sự này sang hố chiến đấu kia thăm hỏi chiến sĩ,
an ủi các chiến thương và khích lệ tinh thần binh sĩ. Chiến binh Hồ Ngọc
Cẩn coi thường cái chết, mà dường như cái chết cũng sợ hãi và tránh xa
con người kiệt xuất ấy. Định mệnh sẽ dành cho người một cái chết cao cả
nhất, ít nhất cũng chưa phải là trong mùa hè đỏ lửa của năm 1972. Dường
như giữa Trung Tá Cẩn và cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí có rất nhiều chất hào
hùng quả cảm giống như nhau. Đại Tướng Đỗ Cao Trí thường nói với các
phóng viên ngoại quốc đi trong cánh quân của người, khi họ tỏ lòng khâm
phục người chiến binh Nhảy Dù ấy đã đứng giơ cao khẩu súng Browning thúc
giục binh sĩ tiến lên, giữa những làn đạn đan chéo như vải trấu của
địch quân: “Nếu đạn không trúng mình thì mình được tiếng anh hùng, mà
nếu đạn có trúng thì mình cũng được tiếng anh hùng luôn”!
Các loại
pháo địch từ 122ly đến 130ly, chưa kể đến những loại cối 81ly và các
loại súng đại bác không giật 75 ly và 90 ly dội hàng chục ngàn quả lên
vị trí của quân ta. Quân Trung Đoàn 15 đánh lên An Lộc dọc theo QL13 từ
Tân Khai tiến rất chậm vì đạn pháo giặc. Để tránh bị thiệt hại nặng,
Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn đã lệnh cho binh sĩ mỗi người đào một hố nhỏ như
những cái “miệng ve” để ẩn trú. Nếu pháo dội trúng cái “miệng ve” nào,
thì chỉ một chiến sĩ ở chỗ đó bị tử thương mà thôi. Trong một khoảng
chiến tuyến mỗi chiều bề dài 300 thước, có hàng mấy trăm cái hố nhỏ, mấy
ngàn quả pháo của cộng quân dội xuống, tính trung bình mỗi mét vuông
lãnh vài trái. Nếu tính theo lý thuyết toán học thì mỗi chiến sĩ Trung
Đoàn “ăn” từ hai trái lấy lên, và như vậy toàn bộ trung đoàn coi như
chết hết. Nhưng thật kỳ diệu, chiến thuật “cò ỉa miệng ve” của quân ta
lại cứu sống hàng ngàn sinh mạng chiến sĩ. Dứt cơn pháo địch, chiến sĩ
ta nhú đầu lên điểm danh quân số, thì thấy rằng, nhờ ơn trời, rất ít
chiến thương. Tuy nhiên khi quân Trung Đoàn 15 tiến quân trên QL13 và
giao chiến với quân địch, thì con số thương vong lên rất cao. Có nhiều
đại đội trên 100 người, khi tàn cuộc chiến trở về Quân Khu IV chỉ còn
khoảng ba chục chiến sĩ.
Ở phía Nam
Tân Khai, Sư Đoàn 21 Bộ Binh cũng bị thiệt hại nặng vì pháo, nhiều sĩ
quan cao cấp bị tử thương. Trung Đoàn Trưởng của một trung đoàn là Trung
Tá Nguyễn Viết Cần và một vị Trung Tá Trung Đoàn Phó của một trung đoàn
khác hy sinh vì pháo địch quá ác liệt. Trung Tá Nguyễn Viết Cần chính
là bào đệ của cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh. Ông xuất thân từ binh
chủng Mũ Đỏ Nhảy Dù, con đường binh nghiệp đang có nhiều triển vọng đi
lên thì ông bị liên can trong vụ thuộc cấp ngộ sát hai Quân Cảnh Mỹ tại
Sài Gòn. Thiếu Tá Cần bị thuyên chuyển về SĐ 21 BB, ít lâu sau ông thăng
Trung Tá và nắm trung đoàn. Cuối cùng thì dòng họ Nguyễn Viết đã cống
hiến cho đất nước đến hai người con ưu tú. Theo lời kể lại của Đại Úy
Tiến, một vị Tiểu Đoàn Phó của Trung Đoàn 15 Bộ Binh lên An Lộc tham
chiến, thì Trung Tá Cẩn đã lệnh cho ông phải đứng lên điều động binh sĩ
giữa lúc đạn pháo giặc dội như bão xuống các vị trí Trung Đoàn. Tất cả
các vị chỉ huy cao cấp của Trung Đoàn đều phải nêu gương dũng cảm cho
thuộc cấp và chiến sĩ, để cùng xông lên giải cứu An Lộc. Vì những chiến
công ngoài chiến trường, tính đến năm 1970 thì Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn là
chiến sĩ được tưởng thưởng nhiều huy chương nhất của Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa, với 78 chiếc của gồm 1 Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, 25 Anh
Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, 45 Anh Dũng Bội Tinh với các loại
Ngôi Sao, 3 Chiến Thương Bội Tinh và 4 Huy Chương Hoa Kỳ.
Sau khi trở
về từ An Lộc, Trung Đoàn 15 Bộ Binh còn tăng viện cho các trung đoàn bạn
và Sư Đoàn 7 Bộ Binh đánh những trận long trời ở miền biên giới
Việt-Miên, các tỉnh bờ Bắc sông Tiền Giang. Những tổn thất và vết thương
còn chưa hồi phục từ chiến trường Miền Đông, lại vỡ toác ra từng mảnh
lớn khác. Nhưng có sá gì chuyện tử sinh, làm thân chiến sĩ thì người
lính của chúng ta chỉ biết tận lực hiến dâng xương máu cho nền tự do của
tổ quốc và cho niềm hạnh phúc của dân tộc. Một lần nữa, Đại Tá Hồ Ngọc
Cẩn được trao cho một chức vụ trọng yếu và hết sức khó khăn, khó có ai
đảm đương nổi. Ông sẽ đi trấn nhậm tỉnh Chương Thiện, một tỉnh có địa
hình phức tạp nhất vùng đồng lầy Miền Tây, với cái gai nhọn nhức nhối
mật khu U Minh Thượng trong lãnh thổ, từ đó quân Bắc Việt và Việt Cộng
phóng ra những cuộc đánh phá lớn, uy hiếp các quận xã hẻo lánh. Chọn Đại
Tá Cẩn về trấn giữ tỉnh Chương Thiện, vị Tư Lệnh Quân Đoàn IV biết chắc
Đại Tá Cẩn cùng với lực lượng Địa Phương Quân-Nghĩa Quân thiện chiến
của ông sẽ ít nhất hóa giải được áp lực giặc, không cho chúng tiến xuống
Cần Thơ. Giữ vững được Chương Thiện tức là bảo đảm an toàn cho lãnh thổ
Quân Khu IV ở bờ Nam sông Hậu Giang.
Trong thời
gian Đại Tá Cẩn làm tỉnh trưởng Chương Thiện, nhiều huyền thoại khác về
ông đã được kể lại. Đại Tá Cẩn chẳng những là một nhà quân sự xuất
chúng, mà còn là một nhà cai trị và bình định tài ba. Một ngày trước khi
ông nhận bàn giao tỉnh Chương Thiện, Đại Tá Cẩn đã ăn mặc thường phục,
giả dạng thường dân đi thanh tra ngầm một vòng tỉnh lỵ Vị Thanh. Ông vào
các sòng bài, những nơi nhận tiền đánh số đề và những ổ điếm quan sát.
Ngày hôm
sau, khi đã chính thức là vị Tỉnh Trưởng Chương Thiện, Đại Tá Cẩn cho
gọi người Thiếu Tá Trưởng Ty Cảnh Sát tỉnh đến cật vấn nghiêm khắc về
những tệ đoan xã hội trong tỉnh, rồi lập tức cách chức ông này. Thay vào
đó là Trung Tá Đường, một vị sĩ quan mẫn cán và tài năng. Trung Tá
Đường là cánh tay mặt vững chãi của Đại Tá trong lĩnh vực bình định, xã
hội và truy bắt bọn Việt Cộng hoạt động dầy đặc trong tỉnh. Bọn cộng phỉ
rất căm thù Trung Tá Đường, đến nỗi sau ngày 30.4.1975, chúng bắt được
Trung Tá Đường, chỉ giam giữ ông một thời gian ngắn rồi đem ông ra xử
bắn tại Vị Thanh. Cùng đền ơn tổ quốc với Trung Tá Đường còn có Đại Úy
Bé, Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Thám Báo Tỉnh. Đại Úy Bé đã làm điêu đứng
bọn giặc cộng, với những chiến sĩ Thám Báo nhảy sâu vào hậu cứ địch báo
cáo tin tức, địch tình, cũng như tọa độ trú quân để Không Quân, Pháo
Binh dội những cơn bão lửa lên đầu chúng. Trung Tá Đường và Đại Úy Bé bị
giặc tàn nhẫn bắn chết tại chân cầu dẫn vào thành phố Vị Thanh.
Có một ông
Quận Trưởng nọ, muốn cho chi khu của mình được an toàn tối đa, chiều nào
cũng xin Pháo Binh tiểu khu yểm trợ hỏa lực, nại lý do Việt Cộng pháo
kích hay tấn công. Đại Tá Cẩn thỏa mãn tối đa và được báo cáo là quận bị
thiệt hại một kho xăng và kho lương thực. Đại Tá tin thật, ông lệnh cho
sĩ quan Trưởng Phòng 3 chuẩn bị xe Jeep đi xuống quận. Buổi chiều chạng
vạng trên những con đường đất hoang vắng rợn người ở vùng quê Chương
Thiện mà vị Tỉnh Trưởng trẻ của chúng ta dám đi xe Jeep cùng với một vài
người lính, chỉ có những chiến binh dũng cảm như Đại Tá Cẩn mới làm
được. Ông Quận Trưởng đang nằm trên võng rung đùi uống Martell hoảng
kinh ngồi bật dậy mặt mũi tái xanh đứng nghiêm chào vị Tỉnh Trưởng đầy
huyền thoại. Đại Tá Cẩn đi thẳng xuống Trung Tâm Hành Quân của Chi Khu
xem bản đồ và ra lệnh cho ông Quận: “Tôi muốn những ấp loại C sau ba
tháng được nâng lên loại B. Những ấp loại B sau ba tháng phải được nâng
lên loại A”. Ngài Quận Trưởng tạm ngưng uống rượu và làm việc trối chết.
Đại Tá Cẩn không trừng trị tội xao nhãng nhiệm vụ của ông Quận, nhưng
cung cách độ lượng và cương quyết của Đại Tá Cẩn giống như lưỡi gươm
trừng phạt treo đung đưa trên đầu. Đúng ba tháng sau, nhận được báo cáo
khả quan của vị Quận Trưởng, Đại Tá Cẩn lại xuống quận ngủ đêm, sau khi
đã trân trọng gắn lon mới tưởng thưởng cho ông này. Nếu tất cả 44 tỉnh
của Việt Nam Cộng Hòa đều có những vị Tỉnh Trưởng can đảm, mẫn cán và
tài ba như Đại Tá Cẩn, làm sao giang sơn hoa gấm của tổ tiên của chúng
ta có thể lọt vào tay bọn cộng nô tay sai Nga Tàu dễ dàng như vậy được.
Chúng ta cũng được biết rằng, Đại Tá Cẩn là vị Tỉnh Trưởng trẻ tuổi nhất
của Việt Nam Cộng Hòa. Ông nhận chức vụ này hồi năm 1973, lúc ông mới
có 35 tuổi.
Những đóng
góp và hy sinh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn lớn lao và nhiều không sao có thể
kể được hết, suốt một đời người đã tận tụy với nước non, danh tiếng lừng
lẫy và nắm giữ những chức vụ khó khăn, mà người vẫn khiêm nhường hết
mực, giữ cuộc sống trong sáng và thanh liêm, tâm tư lúc nào cũng hướng
về những thế hệ đàn em. Một người bạn cũ trong một dịp gặp lại Đại Tá
Cẩn ở Cần Thơ vào mùa hè 1974, đã hỏi ông: “Anh từng là Trung Đoàn
Trưởng, hiện làm Tỉnh Trưởng, anh có nghĩ rằng sau này sẽ làm Tư Lệnh sư
đoàn không”? Con người danh tiếng lừng lẫy trên các chiến trường đã
khiêm tốn trả lời: “Tôi lặn lội suốt mười bốn năm qua gối chưa mỏi,
nhưng kiến thức có hạn. Được chỉ huy trung đoàn là cao rồi, mình phải
biết liêm sỉ chớ, coi sư đoàn sao được. Làm Tỉnh Trưởng bất quá một hai
năm nữa rồi tôi phải ra đi, cho đàn em họ có chỗ tiến thân. Bấy giờ tôi
xin về coi Trường Thiếu Sinh Quân, hoặc coi các lớp huấn luyện Đại Đội
Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, đem những kinh nghiệm thu nhặt được dạy đàn
em. Tôi sẽ thuật trước sau hơn ba trăm trận đánh mà tôi đã trải qua”. Ôi
cao cả biết ngần nào tấm chân tình với nước non và với thế hệ chiến
binh đàn em của người. Con người chân chính để lại cho hậu thế những lời
khí khái.
Cuối cùng
thì cái ngày tang thương 30.4.1975 của đất nước cũng đến. Dân tộc Việt
Nam được chứng kiến những cái chết bi tráng hào hùng của những vị thần
tướng nước Nam, của những sĩ quan các cấp còn chưa được biết và nhắc nhở
tới. Và của những người chiến sĩ vô danh, một đời tận tụy vì nước non,
những đôi vai nhỏ bé gánh vác cả một sức nặng kinh khiếp của chiến
tranh. Sinh mệnh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cũng bị cuốn theo cơn lốc ai oán
của vận mệnh đất nước. Chu vi phòng thủ của Tiểu Khu Chương Thiện co
cụm dần, quân giặc hung hăng đưa quân tràn vào vây chặt lấy bốn phía.
Những chiến sĩ Địa Phương Quân-Nghĩa Quân của Chương Thiện nghiến răng
ghì chặt tay súng, quyết một lòng liều sinh tử với vị chủ tướng anh hùng
của mình. Đại Tá Cẩn nhớ lại lời đanh thép của ông: “Chết thì chết chứ
không lùi”. Ông tự biết những khoảnh khắc của cuộc đời mình cũng co ngắn
lại dần theo với chu vi chiến tuyến. Ông nhớ lại những ngày sình lầy
với Biệt Động Quân, những ngày lên An Lộc với chiến sĩ Sư Đoàn 9 Bộ Binh
đi trong cơn bão lửa ngửa nghiêng, những lúc cùng chiến sĩ Sư Đoàn 21
Bộ Binh đi lùng giặc trong những vùng rừng U Minh hoang dã, và những
chuỗi ngày chung vai chiến đấu với chiến sĩ Địa Phương Quân-Nghĩa Quân
thân thiết và dũng mãnh của ông trên những cánh đồng Chương Thiện hoang
dã. Hơn ba trăm trận chiến đấu, nhưng chưa lần nào ông và chiến sĩ của
ông phải đương đầu với một cuộc chiến cuối cùng khó khăn đến như thế
này.
Khoảng hơn 9
giờ tối ngày 30.4.1975, gần nửa ngày sau khi Tướng Dương Văn Minh đọc
lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng đầu hàng, Đại Tá Cẩn cố
liên lạc về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV xin lệnh của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa
Nam. Người trả lời ông lại là phu nhân Thiếu Tướng Lê Văn Hưng. Đại Tá
Cẩn ngơ ngác không biết chuyện hệ trọng nào mà đã đưa Bà Hưng lên văn
phòng Bộ Tư Lệnh. Bà Hưng áp sát ống nghe vào tai, bà nghe có nhiều
tiếng súng lớn nhỏ nổ ầm ầm từ phía Đại Tá Cẩn. Như vậy là Tiểu Khu
Chương Thiện vẫn còn đang chiến đấu ác liệt và không tuân lệnh hàng cùa
tướng Minh. Trước đó, khoảng 8 G 45 phút tối 30.4.1975 Thiếu Tướng Lê
Văn Hưng đã nổ súng tử tiết, Thiếu Tướng Nam đang đi thăm chiến sĩ và
thương bệnh binh lần cuối cùng trong Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần
Thơ, rồi người tự sát ngay trong đêm. Bà Thiếu Tướng Hưng biết Đại Tá
Cẩn kiên quyết chiến đấu đến cùng, thà chết không hàng, vì đó là tính
cách thiên bẩm của người chiến sĩ Hồ Ngọc Cẩn. Nếu có chết thì Đại Tá
Cẩn phải chết hào hùng, trong danh dự của một người chiến sĩ Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa công chính. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cùng các sĩ quan trong
Ban Chỉ Huy Tiểu Khu và các chiến sĩ Tiểu Khu Chương Thiện đã đánh một
trận tuyệt vọng nhưng lừng lẫy nhất trong chiến sử Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa. Đánh tới viên đạn và giọt máu cuối cùng và đành sa cơ giữa
vòng vây của bầy lang sói. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 11 giờ trưa ngày
1.5.1975, quân ta không còn gì để bắn nữa, Đại Tá Cẩn lệnh cho thuộc cấp
buông súng. Khi những người lính Cộng chỉa súng vào hầm chỉ huy Tiểu
Khu Chương Thiện, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, vị Trung Úy tùy viên và các sĩ
quan tham mưu, hạ sĩ quan và binh sĩ tùng sự đều có mặt. Một viên chỉ
huy Việt Cộng tên Năm Thanh hùng hổ chỉa khẩu K 54 vào đầu Đại Tá Cẩn dữ
dằn gằn giọng: “Anh Cẩn, tội anh đáng chết vì những gì anh đã gây ra
cho chúng tôi”. Đại Tá Cẩn cười nhạt không trả lời.
Cộng Sản Việt Nam hèn hạ dùng nhục hình để xử tử hình Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ngày 14-8-1975.
Nhưng bọn
cộng phỉ không giết ông ngay, chúng đã có kế hoạch làm nhục người anh
hùng sa cơ nhưng cứng cỏi của chúng ta. Các sĩ quan tham mưu được cho về
nhà, nhưng Đại Tá Cẩn thì không, địch áp giải ông sang giam trong Ty
Cảnh Sát Chương Thiện. Vài ngày sau, các sĩ quan Tiểu Khu Chương Thiện
cũng bị gọi vào giam chung với Đại Tá Cẩn. Để làm nhục và hành hạ tinh
thần người dũng tướng nước Nam, giặc cho phá hủy nhà cầu trong Ty Cảnh
Sát và thay vào bằng một cái thùng nhựa. Mỗi buổi sáng, ngày nào chúng
cũng bắt Đại Tá Cẩn cùng một người nữa khiêng thùng phân đi đổ. Người ưu
tiên được làm nhục thứ hai là vị Phó Tỉnh Trưởng. Dù cho các sĩ quan
của ta có đề nghị hãy để cho mọi người làm công tác công bằng, nhưng bọn
Cộng vẫn nhất quyết đày đọa Đại Tá Cẩn. Người anh hùng của chúng ta chỉ
mỉm cười, ung dung làm công việc của mình. Chúa Jesus đã chẳng từng nói
khi lên thập giá: “Lạy Cha ở trên trời, họ không biết việc họ đang làm”
đó sao. Bà Đại Tá Cẩn lo sợ bị cộng quân trả thù nên bà đã đem cậu con
trai duy nhất của ông bà là Hồ Huỳnh Nguyên, lúc ấy được 5 tuổi, về Cần
Thơ ẩn náu và thay đổi lý lịch nhiều lần. Nhớ thương chồng, nhiều lúc bà
đã liều lĩnh choàng khăn che mặt xuống Vị Thanh tìm đến Ty Cảnh Sát
đứng bên này bờ con rạch nghẹn ngào nhìn vào sang dãy tường rào kín
bưng. Một vài sĩ quan ra xách nước trông thấy bà đã tìm cách dẫn Đại Tá
Cẩn ra. Những khoảnh khắc cuối cùng đẫm đầy nước mắt ấy sẽ theo ký ức
của bà Đại Tá Cẩn đến suốt khoảng đời còn lại của bà. Đầu năm 1979 bà
Cẩn cùng bé Nguyên liều chết vượt biển. Thượng Đế đã dang tay từ ái bảo
vệ giọt máu duy nhất của Đại Tá Cẩn. Bà Cẩn và bé Nguyên đến được đảo
Bidong thuộc Mã Lai. Mười tháng sau hai mẹ con bà Đại Tá Cẩn được phái
đoàn phỏng vấn Mỹ cho định cư tại Hoa Kỳ theo dạng ưu tiên có chồng và
cha bị cộng sản bắn chết tại Việt Nam.
Bọn phỉ
không giết Đại Tá Cẩn ngay, chúng muốn làm nhục người và làm nhục quân
dân Miền Tây. Bọn chúng sẽ thiết trí một pháp trường và dành cho người
một cái chết thảm khốc hơn. Đại Tá Cẩn không thể tử tiết, vì là con
chiên ngoan đạo, luật Công Giáo không cho phép con cái Chúa được tự tử.
Đại Tá Cẩn thường cầu nguyện mỗi buổi sáng và thổ lộ tâm tư với thuộc
cấp trước khi ra trận: “Sống chết nằm trong tay Chúa”. Vì vậy viên đạn
cuối cùng người bắn vào kẻ thù, để cho chúng biết rằng nước Nam không
thiếu anh hùng.
Quân dân
Miền Tây đã tiếc thương cái chết của hai vị thần tướng Nguyễn Khoa Nam
và Lê Văn Hưng trong ngày u ám đen tối nhất của lịch sử Việt Nam. Giờ
đây, cũng trong bầu không khí ảm đạm đau buồn của ngày 14.8.1975, người
dân thủ phủ Cần Thơ sẽ được chứng kiến giây phút lìa đời cao cả của
người anh hùng Hồ Ngọc Cẩn. Bọn sói lang đã áp giải người từ Chương
Thiện về Cần Thơ và cho bọn ngưu đầu đi phóng thanh loan báo địa điểm,
giờ phút hành hình người anh hùng cuối cùng của Quân Lực Việt Cộng Hòa.
Bọn tiểu nhân cuồng sát thay vì nghiêng mình kính phục khí phách của
người đối địch, thì chúng lại lấy lòng dạ của loài khỉ và loài quỷ để
đòi máu của người phải chảy. Chúng quyết tâm giết Đại Tá Cẩn để đánh đòn
tâm lý phủ đầu lên những người yêu nước nào còn dám tổ chức kháng cự
lại bọn chúng. Thật đau đớn, trong khoảnh khắc cuối cùng này, bà Đại Tá
Cẩn và người con trai còn phải ẩn trốn một nơi kín đáo theo lời căn dặn
của Đại Tá Cẩn trước khi ông bị bắt, vì sợ bọn chúng bắt bớ tra tấn, nên
bà không thể có mặt để chứng kiến giây phút Đại Tá Cẩn đi vào lịch sử.
Trước lúc bị hành hình, những người cộng sản xử ông hỏi ông có nhận tội không thì ông trả lời như sau:
“Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ
không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục
các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các
anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không
có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán xét đoán các
anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin
đừng bịt mắt. Đả đảo cộng sản. Việt Nam muôn năm”.
Đại Tá Cẩn
bị giải lên chỗ hành hình, mấy tên khăn rằn hung hăng ghìm súng bao
quanh người chiến sĩ. Trước khi bắn người, tên chỉ huy cho phép người
được nói. Đại Tá Cẩn trong chiếc áo tù vẫn hiên ngang để lại cho lịch sử
lời khẳng khái: “Tôi chỉ có một mình, không mang vũ khí, tôi không
đầu hàng, các ông cứ bắn tôi đi. Nhưng trước khi bắn tôi xin được mặc
quân phục và chào lá quốc kỳ của tôi lần cuối”. Dĩ nhiên lời yêu cầu
không được thỏa mãn. Đại Tá Cẩn còn muốn nói thêm những lời trối trăn
hào hùng nữa, nhưng người đã bị mấy tên khăn rằn nón cối xông lên đè
người xuống và bịt miệng lại. Tên chỉ huy ra lệnh hành quyết người anh
hùng. Điều duy nhất mà bọn chúng thỏa mãn cho người là không bịt mắt, để
người nhìn thẳng vào những họng súng thù, nhìn lần cuối quốc dân đồng
bào. Rồi người ngạo nghễ ra đi.
Cùng ngẩng
cao đầu đi vào chiến sử Việt Nam với Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn tại sân vận động
Cần Thơ là người anh hùng Thiếu Tá Trịnh Tấn Tiếp, Quận Trưởng quận
Kiến Thiện, bạn đồng khóa với Đại Tá Cẩn. Thiếu Tá Tiếp đã cùng các
chiến sĩ Địa Phương Quân Chi Khu chiến đấu dũng cảm đến sáng ngày
1.5.1975 thì ông bị sa vào tay giặc. Thiếu Tá Tiếp là một sĩ quan xuất
sắc, trí dũng song toàn. Ông đã từng gây rất nhiều tổn thất nặng nề cho
quân địch, nhờ tổ chức thám sát chính xác, có lần ông đã gọi B 52 dội
trúng một trung đoàn cộng quân và hầu như xóa sổ trung đoàn này. Cộng
quân ghi nhớ mối thù này, người anh hùng của chúng ta sa vào chúng, thì
chúng sẽ giết chết ông không thương tiếc. Hai người anh hùng cuối cùng
của miền Tây đã vĩnh viễn ra đi. Đất trời những ngày đầu mùa mưa bỗng
tối sầm lại.
Một nhân chứng đứng ở hàng đầu dân chúng kể lại rằng, trong những giây phút cuối cùng, Đại Tá Cẩn đã dõng dạc hét lớn: “Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm! Đả Đảo Cộng Sản”!
Năm sáu tên bộ đội nhào vào tấn công như lũ lang sói, chúng la hét man
rợ và đánh đấm người anh hùng sa cơ tàn nhẫn. Người dân Cần Thơ lén đưa
thi thể cố Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn về… và phủ cho một lá cờ Việt Nam Cộng
Hòa… mà cố Đại Tá đã suốt đời phục vụ cho lý tưởng của Việt Nam Cộng
Hoà.
Người phụ nữ
nhân chứng nước mắt ràn rụa, bà nhắm nghiền mắt lại không dám nhìn. Bà
nghe trong cõi âm thanh rừng rú có nhiều tiếng súng nổ chát chúa. Khi bà
mở mắt ra thì thấy nhiều tên Việt Cộng quây quanh thi thể của Đại Tá
Cẩn và khiêng đem đi.
Đúng ra,
phải vinh danh Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn là Chuẩn Tướng Hồ Ngọc Cẩn, vì người
đã anh dũng chiến đấu trên chiến trường và vị quốc vong thân. Nhưng Tổng
Thống Tổng Tư Lệnh, Tổng Tham Mưu Trưởng đã bỏ chạy từ lâu, Tư Lệnh
Quân Khu IV đã tử tiết, lấy ai đủ tư cách trao gắn lon và truy thăng
Chuẩn Tướng cho người. Anh linh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã thăng thiên.
Tên tuổi của ông đã đi vào lịch sử đến ngàn đời sau. Xin người hãy
thương xót cho dân tộc và đất nước Việt Nam còn đang chìm đắm trong tối
tăm và gông xiềng cộng sản, xin hãy ban cho những người còn đang sống
khắc khoải sức mạnh và quyết tâm. Để cùng nhau đứng dậy lật đổ chúng,
hất bọn chúng, tất cả bọn tự nhận là con cháu loài vượn đó vào vực thẳm
lạnh lẽo nhất của địa ngục.
Phạm Phong Dinh
HLTL:
Theo tài liệu của Bác sĩ Yên Tử Trần Đại Sỹ, trong số nhân chứng có mặt
tại sân vận động Cần Thơ ngày 14-8-1975 thuật lại có bà Vũ Thị Quỳnh-Chi
(phu nhân Trung-tá bác-sĩ Jean Marc Bodoret, hiện sống ở Marseille). Bà là em ruột của cựu Thiếu-sinh-quân Vũ Tiến Quang, người lính sau cùng bên cạnh tử chiến cùng Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn.
Video: Quốc Hận 30-4-1975 – Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn
(Phu nhân Cố Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn chia sẻ)
(Phu nhân Cố Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn chia sẻ)
Tưởng
nhớ Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, đồng bào tị nạn CS dựng tên đường mang tên Hồ
Ngọc Cẩn ở khu Eden Center, Virginia, Hoa Kỳ (Ảnh chụp 2008 – HLTL)
Chuẩn Tướng Richard J. Tallman Tử Trận tại An Lộc 1972
Richard J. Tallman
From Wikipedia, the free encyclopediaRichard J. Tallman Born March 28, 1925
Wayne County, PennsylvaniaDied July 9, 1972 (aged 47) An Lộc, South Vietnam Place of burial West Point Cemetery Allegiance United States of America Service/branch United States Army Years of service 1943–1972 Rank Brigadier General Commands held Deputy Commander, Third [Military] Regional Assistance Command Battles/wars World War II Korean War Vietnam War † Awards Silver Star
Richard J. Tallman (March 28, 1925 – July 9, 1972) was a United States Army brigadier general who was killed by North Vietnamese artillery fire in 1972 during the Battle of An Lộc.[1] He was the last U.S. Army general and last general officer to die in the Vietnam War. He also served in World War II and the Korean War.
Contents
Early life and family
He was born in Honesdale, Wayne County, Pennsylvania.
General Tallman married Miss Evelyn Phillips in 1949, they had seven children.
Education
He graduated from Honesdale High School in 1943.
He graduated from the US Military Academy at West Point in 1949.
US Army career
Shortly after graduation he was drafted into the Army and sent to the European theatre. He fought in the Battle of the Bulge as a machine gunner. He later earned a field commission. He subsequently became a cadet at West Point graduating in the Class of 1949 as an infantry officer.
1st Lt Tallman saw action during the Korean War in 1951-2 with the 3rd Infantry Division.
He later served as a tactical officer and military history teacher and as assistant commandant of cadets at West Point.
Vietnam War
General Tallman served four tours of duty during the Vienam War.
He served as senior advisor to the ARVN 22nd Infantry Division.
Then-Lieutenant Colonel Tallman commanded the 2nd Battalion, 501st Infantry Regiment in 1968-68.
On 18 June 1971, then-Colonel Tallman became commander of the 3rd Brigade of the 101st Airborne Division.
On 1 July 1972 he was promoted to Brigadier-General and appointed as Deputy Commander of Third [Military] Regional Assistance Command (TRAC) which was responsible for overseeing all U.S. military advisors throughout the 3rd Military Region.
Death
On 9 July 1972, General Tallman and his aides had just landed at An Lộc to observe ARVN counter-offensive operations at the conclusion of the Battle of An Lộc when they were hit by North Vietnamese artillery fire, 3 of the group were killed instantly, while General Tallman and two others were wounded. The wounded men were evacuated to the 3rd Field Hospital in Saigon where General Tallman died of his wounds.[2]He was the last U.S. Army general to die in South Vietnam.
Memorials
The Brigadier General Richard J. Tallman Memorial Bridge in Honesdale is named in his honour.[3]
See also
References
- "Richard Tallman, Brigadier General, United States Army". The Virtual Wall. Retrieved 24 August 2014.
- Willbanks, James (2005). The Battle of An Loc. Indiana University Press. p. 145. ISBN 9780253344816.
Tướng Lê Văn Hưng, người hùng An Lộc
Tướng Lê Văn Hưng đảm nhiệm chức vụ
Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh, khi còn mang cấp bậc Đại Tá. Mùa Hè Đỏ Lửa
năm 1972, ông được giao nhiệm vụ tổng chỉ huy mặt trận An Lộc, ông giữ
vững thị xã An Lộc và đã đẩy lui quân cộng sản Bắc Việt sau hai tháng tử
chiến tại mặt trận này.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho quân dân Việt Nam Cộng Hòa buông súng, ông ra lệnh cho thuộc cấp tan hàng, sau đó quay vào văn phòng rút súng bắn vào đầu tự sát đền nợ nước.
Trong tiết mục Danh nhân nước Việt, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài "Tướng Lê Văn Hưng, người hùng An Lộc" của Việt Thái qua giọng đọc của Hoài Phương và Nam Hương để kết thúc chương trình tối hôm nay.
Khí tiết Lê Văn Hưng đã thăng hoa giữa chiến trường Bình Long và hoa anh hùng Lê Văn Hưng đã nở đẹp tại phòng tuyến An Lộc. Và rồi hấp hối theo vận nước, phút cuối Lê Tướng Quân đã chọn cái chết bi hùng để trở thành bất tử trong lịch sử và quân sử Việt Nam.
Với dụng ý vinh danh và tưởng niệm Tướng Lê Văn Hưng, nơi trang cuối của tác phẩm "Last Man Out", tác giả James E Parker, đã xếp bài thơ không tựa, không tên tác giả với câu thơ chấm dứt: I am not there. I did not die.
Và sau chót, một câu lập ngôn được xem như quân huấn của danh tướng Douglas MacArthur: "Duty, Honor, Country".
-Năm 1966, mang cấp bậc Thiếu tá, ông làm Tiểu đoàn trưởng TĐ2, TrĐ31, SĐ21BB. Cũng trong năm 1966, ông được các phóng viên chiến trường vinh danh là một trong Ngũ hổ U Minh Thượng cùng với 4 sĩ quan khác là: Thiếu tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu đoàn trưởng TĐ42 BÐQ. Thiếu tá Nguyễn Văn Huy, Tiểu đoàn trưởng TĐ44BÐQ. Ðại úy Vương Văn Trổ, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3, TrĐ33, SĐ21BB. Ðại úy Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu đoàn trưởng TĐ 1, TrĐ33, SĐ21BB.
-Năm 1968, ông làm Trung đoàn trưởng TrĐ 31, SĐ21BB. Ông đã lập nhiều chiến tích tại chiến trường Hậu Giang nên được thăng cấp Đại tá.
-Tháng 6/1971, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh SĐ5BB khi còn mang cấp Đại tá.
-Năm 1972, ông được thăng cấp Chuẩn tướng, vẫn làm Tư lệnh SĐ5BB đến ngày 3/9/1972 và sau đó giữ chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn III.
-Năm 1973, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 21 BB, cuối tháng 10/1974, ông đảm nhận chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn IV, Quân khu 4.
Tối ngày 30/4/1975, tại Bộ Tư lệnh Quân đoàn, sau khi nói lời từ giã với gia đình và bắt tay từ biệt thuộc cấp, Tướng Hưng đã quay vào văn phòng, khóa chặt cửa và tự sát bằng súng lục vào lúc 8 giờ 45 phút tối.
***
Tác giả James E Parker, đã kể lại cái chết bi tráng, thương cảm của Tướng Lê Văn Hưng như sau:
"Ngày 30 tháng 4 năm 1975, đúng 7 giờ tối, Tướng Hưng, đã nhắn gọi vợ ông đến văn phòng làm việc tại Cần Thơ, ông không hề nghĩ tới việc diện kiến và thảo luận với một giới chức Việt Cộng tên Hoàng Văn Thạch, để bàn giao vùng Hậu Giang cho Cộng Sản. Ông không bỏ nước để thoát thân. Ông có trách nhiệm với những quân nhân đã dành mạng sống của họ ở lại vị trí trấn thủ. Ông đã ở lại bằng một lựa chọn vinh dự. Ông phải tự quyết định sinh mạng của mình.
Khi người vợ và các con bước vô văn phòng làm việc của ông, Tướng Hưng nói lời chia tay và cúi xuống hôn từng đứa con. Bên ngoài văn phòng, nhiều sĩ quan và binh lính thuộc cấp lần lượt kéo tới, đứng sắp hàng ngoài sân, chờ đợi lệnh.
Tướng Hưng tuyên bố việc chiến đấu đã chấm dứt. Ông nói, nước đã mất là do lãnh đạo kém tại Sài Gòn, và xin thuộc cấp tha thứ lỗi của ông, nếu như cá nhân ông đã có những lỗi lầm nào đó.
Bầu không khí xung quanh nặng nề. "Tôi chấp nhận cái chết. Vĩnh biệt các anh em", Tướng Hưng nói dứt câu đưa tay lên chào và bắt tay từng người một. Ông yêu cầu mọi người ra về và chỉ một mình bước vô văn phòng làm việc. Chỉ trong khoảnh khắc sau đó vang lên một tiếng súng nổ. Tướng Hưng đã tự sát bằng súng".
***
Tướng Lê Văn Hưng đã cùng với quân sĩ các cấp giữ vững phòng tuyến tỉnh lỵ Bình Long. Trong những giờ phút căng thẳng nhất của cuộc chiến, ông đã nêu gương sáng cho các sĩ quan thuộc quyền về phong cách chỉ huy. Trong cuộc phỏng vấn, thay vì nói về mình, Tướng Hưng chỉ đề cao tinh thần chiến đấu của chiến sĩ thuộc các quân binh chủng đã giữ vững An Lộc và tình cảnh bi đát của mấy chục ngàn đồng bào kẹt giữa vùng lửa đạn Bình Long. Trước khi vĩnh biệt, ông nhận lãnh trách nhiệm trước lịch sử và dân tộc, ông nói: "Tôi bằng lòng chọn cái chết. Tướng mà không giữ được Nước, không bảo vệ được Thành, thì phải chết theo Thành".
Đúng 40 năm sau ngày 30/4/1975, không chỉ có các thế hệ lớn lên ở VN mà cả dân chúng nước Mỹ cũng đau lòng khi biết được những giờ phút lẫm liệt vào cuối đời của Tướng Lê Văn Hưng. Một điều rõ ràng nhất là ông hiểu rất tường tận bọn cộng sản nên chọn cái chết chứ không muốn bị lăng nhục như Dương Văn Minh khi bị một đại tá cộng sản ra lệnh đầu hàng tại Dinh Độc Lập.
Khi viết cuốn sách "Last Man Out – A Personal Account of the Vietnam War", tác giả James E Parker Jr. chắc chắn sẽ ngậm ngùi nhớ lại dấu mốc lịch sử khi Tướng Robert Edward Lee, trao thanh gươm biểu tượng cho sự đầu hàng của Nam quân cho Tướng Ulysses S. Grant của Bắc quân để chấm dứt cuộc nội chiến Nam - Bắc Mỹ. Sau khi nhận thanh gươm, Tướng Grant đã nói một câu bất hủ để xóa đi mặc cảm thất trận của Tướng Lee: "Đây không phải là sự thắng bại gì cả. Đây là niềm ô nhục trong lịch sử Hoa Kỳ".
Chính nhờ câu nói đó mà Tướng Lee không chết vì uất hận, trái lại đã cổ xúy mạnh mẽ cho việc hòa hợp giữa hai miền sau chiến tranh. Nhưng đất nước VN không có được sự may mắn đó, 40 năm trôi qua, người cộng sản vẫn tiếp tục gây thêm phân hóa và hận thù trong lòng dân tộc khi ra rả xưng tụng cái gọi là "Đại thắng Mùa xuân 1975".
Nhưng càng rầm rộ thì càng khiến cho người dân VN biết đến những võ tướng hiển hách của quân lực VNCH, trong đó có Tướng Lê Văn Hưng, người hùng An Lộc!
Việt Thái
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho quân dân Việt Nam Cộng Hòa buông súng, ông ra lệnh cho thuộc cấp tan hàng, sau đó quay vào văn phòng rút súng bắn vào đầu tự sát đền nợ nước.
Trong tiết mục Danh nhân nước Việt, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài "Tướng Lê Văn Hưng, người hùng An Lộc" của Việt Thái qua giọng đọc của Hoài Phương và Nam Hương để kết thúc chương trình tối hôm nay.
Khí tiết Lê Văn Hưng đã thăng hoa giữa chiến trường Bình Long và hoa anh hùng Lê Văn Hưng đã nở đẹp tại phòng tuyến An Lộc. Và rồi hấp hối theo vận nước, phút cuối Lê Tướng Quân đã chọn cái chết bi hùng để trở thành bất tử trong lịch sử và quân sử Việt Nam.
Với dụng ý vinh danh và tưởng niệm Tướng Lê Văn Hưng, nơi trang cuối của tác phẩm "Last Man Out", tác giả James E Parker, đã xếp bài thơ không tựa, không tên tác giả với câu thơ chấm dứt: I am not there. I did not die.
Và sau chót, một câu lập ngôn được xem như quân huấn của danh tướng Douglas MacArthur: "Duty, Honor, Country".
***
Tướng Lê Văn Hưng xuất thân khóa 5 Sĩ quan Trừ bị Thủ Ðức, mãn khóa
vào tháng 1 năm 1955. Sau ngày ra trường, ông thuyên chuyển về miền Tây
giữ các chức vụ chỉ huy từ cấp Đại đội, Tiểu đoàn (TĐ), Trung đoàn (TrĐ)
thuộc Sư đoàn 21 Bộ Binh.-Năm 1966, mang cấp bậc Thiếu tá, ông làm Tiểu đoàn trưởng TĐ2, TrĐ31, SĐ21BB. Cũng trong năm 1966, ông được các phóng viên chiến trường vinh danh là một trong Ngũ hổ U Minh Thượng cùng với 4 sĩ quan khác là: Thiếu tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu đoàn trưởng TĐ42 BÐQ. Thiếu tá Nguyễn Văn Huy, Tiểu đoàn trưởng TĐ44BÐQ. Ðại úy Vương Văn Trổ, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3, TrĐ33, SĐ21BB. Ðại úy Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu đoàn trưởng TĐ 1, TrĐ33, SĐ21BB.
-Năm 1968, ông làm Trung đoàn trưởng TrĐ 31, SĐ21BB. Ông đã lập nhiều chiến tích tại chiến trường Hậu Giang nên được thăng cấp Đại tá.
-Tháng 6/1971, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh SĐ5BB khi còn mang cấp Đại tá.
-Năm 1972, ông được thăng cấp Chuẩn tướng, vẫn làm Tư lệnh SĐ5BB đến ngày 3/9/1972 và sau đó giữ chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn III.
-Năm 1973, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 21 BB, cuối tháng 10/1974, ông đảm nhận chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn IV, Quân khu 4.
Tối ngày 30/4/1975, tại Bộ Tư lệnh Quân đoàn, sau khi nói lời từ giã với gia đình và bắt tay từ biệt thuộc cấp, Tướng Hưng đã quay vào văn phòng, khóa chặt cửa và tự sát bằng súng lục vào lúc 8 giờ 45 phút tối.
***
Tác giả James E Parker, đã kể lại cái chết bi tráng, thương cảm của Tướng Lê Văn Hưng như sau:
"Ngày 30 tháng 4 năm 1975, đúng 7 giờ tối, Tướng Hưng, đã nhắn gọi vợ ông đến văn phòng làm việc tại Cần Thơ, ông không hề nghĩ tới việc diện kiến và thảo luận với một giới chức Việt Cộng tên Hoàng Văn Thạch, để bàn giao vùng Hậu Giang cho Cộng Sản. Ông không bỏ nước để thoát thân. Ông có trách nhiệm với những quân nhân đã dành mạng sống của họ ở lại vị trí trấn thủ. Ông đã ở lại bằng một lựa chọn vinh dự. Ông phải tự quyết định sinh mạng của mình.
Khi người vợ và các con bước vô văn phòng làm việc của ông, Tướng Hưng nói lời chia tay và cúi xuống hôn từng đứa con. Bên ngoài văn phòng, nhiều sĩ quan và binh lính thuộc cấp lần lượt kéo tới, đứng sắp hàng ngoài sân, chờ đợi lệnh.
Tướng Hưng tuyên bố việc chiến đấu đã chấm dứt. Ông nói, nước đã mất là do lãnh đạo kém tại Sài Gòn, và xin thuộc cấp tha thứ lỗi của ông, nếu như cá nhân ông đã có những lỗi lầm nào đó.
Bầu không khí xung quanh nặng nề. "Tôi chấp nhận cái chết. Vĩnh biệt các anh em", Tướng Hưng nói dứt câu đưa tay lên chào và bắt tay từng người một. Ông yêu cầu mọi người ra về và chỉ một mình bước vô văn phòng làm việc. Chỉ trong khoảnh khắc sau đó vang lên một tiếng súng nổ. Tướng Hưng đã tự sát bằng súng".
***
Tướng Lê Văn Hưng đã cùng với quân sĩ các cấp giữ vững phòng tuyến tỉnh lỵ Bình Long. Trong những giờ phút căng thẳng nhất của cuộc chiến, ông đã nêu gương sáng cho các sĩ quan thuộc quyền về phong cách chỉ huy. Trong cuộc phỏng vấn, thay vì nói về mình, Tướng Hưng chỉ đề cao tinh thần chiến đấu của chiến sĩ thuộc các quân binh chủng đã giữ vững An Lộc và tình cảnh bi đát của mấy chục ngàn đồng bào kẹt giữa vùng lửa đạn Bình Long. Trước khi vĩnh biệt, ông nhận lãnh trách nhiệm trước lịch sử và dân tộc, ông nói: "Tôi bằng lòng chọn cái chết. Tướng mà không giữ được Nước, không bảo vệ được Thành, thì phải chết theo Thành".
Đúng 40 năm sau ngày 30/4/1975, không chỉ có các thế hệ lớn lên ở VN mà cả dân chúng nước Mỹ cũng đau lòng khi biết được những giờ phút lẫm liệt vào cuối đời của Tướng Lê Văn Hưng. Một điều rõ ràng nhất là ông hiểu rất tường tận bọn cộng sản nên chọn cái chết chứ không muốn bị lăng nhục như Dương Văn Minh khi bị một đại tá cộng sản ra lệnh đầu hàng tại Dinh Độc Lập.
Khi viết cuốn sách "Last Man Out – A Personal Account of the Vietnam War", tác giả James E Parker Jr. chắc chắn sẽ ngậm ngùi nhớ lại dấu mốc lịch sử khi Tướng Robert Edward Lee, trao thanh gươm biểu tượng cho sự đầu hàng của Nam quân cho Tướng Ulysses S. Grant của Bắc quân để chấm dứt cuộc nội chiến Nam - Bắc Mỹ. Sau khi nhận thanh gươm, Tướng Grant đã nói một câu bất hủ để xóa đi mặc cảm thất trận của Tướng Lee: "Đây không phải là sự thắng bại gì cả. Đây là niềm ô nhục trong lịch sử Hoa Kỳ".
Chính nhờ câu nói đó mà Tướng Lee không chết vì uất hận, trái lại đã cổ xúy mạnh mẽ cho việc hòa hợp giữa hai miền sau chiến tranh. Nhưng đất nước VN không có được sự may mắn đó, 40 năm trôi qua, người cộng sản vẫn tiếp tục gây thêm phân hóa và hận thù trong lòng dân tộc khi ra rả xưng tụng cái gọi là "Đại thắng Mùa xuân 1975".
Nhưng càng rầm rộ thì càng khiến cho người dân VN biết đến những võ tướng hiển hách của quân lực VNCH, trong đó có Tướng Lê Văn Hưng, người hùng An Lộc!
Việt Thái
Người Hùng An Lộc / Tướng Nhảy Dù Lê Quang Lưỡng
Tướng Lê Quang Lưỡng sinh năm 1932 quê tại tỉnh Bình Dương. Thời niên
thiếu, học hết bậc Tiểu học tại tỉnh nhà ông lên Sài Gòn theo học tại
Trường Trung Học Petrus Ký. Sau khi lấy bằng Thành Chung ông gia nhập
vào quân đội và xuất thân Khóa 4 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, cùng
khóa với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, Đại Tá
Lê Văn Phát…Ngay khi vừa mãn khóa vào ngày 1 tháng 06 năm 1954 ông tình
nguyện sang Binh Chủng Nhảy Dù và được gởi ngay ra Bắc bổ sung cho Tiểu
Đoàn 5 Nhảy Dù với chức vụ Trung Đội Trưởng của Đại Ðội 52 ND. Từ đó ông
đã trải qua các chức vụ chỉ huy từ cấp Trung Đội Trưởng (Thăng cấp
Trung Úy tháng 6/1956), Đại Đội Trưởng (Thăng cấp Đại Úy tháng 11/1963),
Ban 3 Tiểu Đoàn rồi Tiểu Đoàn Phó.
Năm 1965 Ông được đi du học về “Tác Chiến Trong Rừng Núi Sình Lầy” tại Mã Lai Á. Tại quân trường ông đã trình bày chiến thuật tấn công và tác chiến theo quan điểm của riêng ông được tất cả các Huấn luyện viên đều chú ý và thán phục. Đến tháng 9/1965, về nước với bằng tốt nghiệp Thủ Khoa, ông được Tướng Dư Quốc Đống chỉ định nhiệm vụ thành lập và giữ chức Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2ND tại Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Vạn Kiếp ở Bà Rịa. Trong buổi lể xuất quân của TĐ2ND vào tháng 1/1966, Đại Tá Lý Thái Như Chỉ Huy Trưởng TTHL/QG Vạn Kiếp đã Chủ Tọa và trao gắng cấp bậc Thiếu Tá cho Ông.
Sau buổi lể xuất quân, Tiểu Ðoàn 2 ND về trấn giữ vòng đai Biệt-Khu-Thủ-Ðô vừa chỉnh trang đơn vị, vừa tái huấn luyện tại chỗ. Chính ông đã đứng ra hướng dẩn tất cả Sĩ quan cũng như binh sĩ về chiến thuật và kỹ thuật tác chiến của Nhảy Dù và ngay sau đó TĐ2ND đã tham chiến tại khu phi chiến, tại đồi 1416 trên đỉnh Ngok Wank quân khu II, tại khắp các mặt trận ở các quân khu và đã từng gây kinh hoàng cho các đơn vị CS không thua bất cứ một đơn vị Nhảy Dù kỳ cựu nào khác.
Cuối năm 1967, ông sang Okinawa du khảo và học hỏi về Chiến thuật phản tình báo và chống chiến tranh du kích. Ngày 25/1/1968, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Lữ Ðoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù thay thế Trung Tá Hồ Trung Hậu, đánh đuổi quân Cộng Sản ra khỏi Huế và Quảng Trị trong trận chiến “Tổng Công Kích năm Mậu Thân” của CS. Sau trận nầy ông được thăng cấp Trung Tá tại mặt trận vào tháng 4/1968. Và cũng trong chức vụ LĐT/LĐIND ông được thăng cấp Ðại Tá tại mặt trận vào tháng 9/1969 sau các cuộc hành quân tại Tây Ninh để tiêu diệt các đơn vị CS lẩn khuất trong khu vực Chiến Khu C và đưa chiến trường ra khỏi lảnh thổ Quân Khu III qua bên kia biên giới.
Kể từ đây, ông đã tham gia hầu hết các cuộc hành quân làm nên lịch sử của SĐND, như là Chiến dịch Bình Tây Kampuchea 1970, Hành Quân Lam Sơn 719 trên đất Lào vào tháng 02 năm 1971, giải vây An Lộc tháng 4/1972, Hành Quân Lam Sơn 72 trong chiến dịch Lôi Phong tái chiếm Quảng Trị vào tháng 06 năm 1972, và cuộc hành quân tái chiếm Thường Đức vào tháng 08 năm 1974. Trong ba cuộc hành quân đầu, Tướng Lưỡng đã tham dự với tư cách Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, trong các cuộc hành quân về sau Tướng Lưỡng đã điều quân với tư cách là Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù.
Trong trận chiến giải vây An Lộc năm 1972, tài điều binh của ông đã được đưa vào chương trình nghiên huấn của Trường Quân Sự Command and General Staff College (Đại Học Chỉ Huy & Tham Mưu) ở Fort Leavenworth, tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ sau hai danh tướng Tôn Tử, một thiên tài quân sự nổi tiếng của Trung Hoa thời Xuân Thu Chiến Quốc (722 – 480 TCN) và Erwin Rommel (1891 – 1944 có biệt danh là "the Desert Fox") một tướng lảnh lừng danh của Đức Quốc Xả vào đệ nhị thế chiến.
Trong trận chiến nầy ông đã phối hợp chiến thuật phân tán mỏng các đơn vị Nhảy Dù để bao vây, dùng các Tổ Khinh Binh đột kích vào các chốt của CS rồi dùng Phi Pháo và Pháo Binh tiêu diệt địch để phá vở chiến thuật Chốt Kiềng của CS tại suối Tàu Ô cũng như tại cửa ngỏ Sóc Gòn của An Lộc.
Đại Tá Lê Quang Lưỡng đã áp dụng yếu tố bất ngờ một cách táo bạo và thành công khi đổ quân Nhảy Dù xuống Sóc Ton Cui cạnh Đồi Gió để làm đầu cầu, rồi tiến vào An Lộc. Ông cũng đã nghi binh đánh lạc hướng địch quân khi liên lạc bằng hệ thống âm thoại báo cho Tướng Hưng rằng ông sẽ không vào An Lộc mà ngày mai Quân Đoàn sẽ đưa một đại đơn vị nhảy xuống phía Bắc An Lộc tấn công vào Đồi Đồng Long vào giải cứu các đơn vị bị bao vây. Ông được Tướng Minh Tư Lịnh Quân Khu III đặt trọn niềm tin và giao cho Ông trọn quyền quyết định sách lược.
Với kinh nghiệm lão luyên trên chiến trường của một “Quân Đội con nhà nghèo” với sự yểm trợ tích cực của người bạn đồng minh, ông đã sử dụng tài tình và hiệu quả lối đánh thần tốc của các Chiến Binh Nhảy Dù với hỏa lực vô tiền khoáng hậu của phi pháo và các pháo đài bay B52 để tiêu diệt các đơn vị CS, để giải vây cho các đơn vị thuộc quyền, để mở rộng vòng đai và rồi hoàn toàn giải tỏa An Lộc.
Tháng 6 năm 1972, Đại Tá Lê Quang Lưỡng được đề cử chức vụ Phụ-Tá hành-quân cho Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù là Trung Tướng Dư Quốc Đống trong chiến dịch Lôi Phong tái chiếm Quảng Tri. Cuối tháng 8 năm 1972, ông được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thăng cấp Chuẩn Tướng, và sau đó ông được bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Phó, xử lý thường vụ chức vụ Tư Lệnh SĐND. Lúc bấy giờ Bộ Tư Lệnh Hành Quân Sư Đoàn Nhảy Dù đặt tại căn cứ Hiệp Khánh, cách Huế 17 km về phía Bắc.
Tháng 11 năm 1972, Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng chính thức được chỉ định làm Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù cũng là vào lúc VNCH đang đi vào một giai đoạn cực kỳ khó khăn nhất trong lịch sử. Sư Đoàn Nhảy Dù do ông chỉ huy đã phải đương đầu với bao nhiêu thử thách từ phía Cộng quân cũng như từ phía Đồng Minh và nội bộ của VNCH. Nhưng ông luôn giữ đúng phong cách của một vị chỉ huy, thi hành trách nhiệm được giao phó một cách hoàn hảo và suốt đời tận tụy hy sinh cho tổ quốc đến những ngày cuối tháng 4/1975.
Trận đánh để đời sau cùng của ông là trận Thường Đức từ tháng 8/1974 đến tháng 11/1974 ông đã áp dụng chiến thuật Xa Luân Chiến để 3 Lữ Đoàn Nhảy Dù luân phiên giao tranh và gây thiệt hại nặng nề cho hai SĐ324B, SĐ304 và một Trung Đoàn của SĐ2CSBV cùng các lực lượng địa phương.
Năm 1975 vào những ngày tháng lịch sử của VNCH, lệnh từ trung ương bỏ quân Đoàn I và rút Sư Đoàn Nhảy Dù về Sài Gòn. Một tin chấn động cho toàn quân, toàn dân và sự kinh hoàng tột độ ấy đã mở đầu cho sự tan rã ồ ạt sau đó.
Hơn thế nữa, kể từ ngày SĐND được bốc khỏi Vùng I, quyền chỉ huy chiến thuật binh chủng Nhảy Dù, quyền xử dụng các chiến binh Nhảy Dù cũng vượt ra khỏi tầm tay của vị Tư Lệnh. Các đơn vị Nhảy Dù đã bị xé ra từng mảnh. Mỗi đơn vị một nơi rồi lần lượt bị tan hàng.
Ngày 29 tháng 4 năm 1975 Tướng Lưỡng di tản sang Hoa Kỳ, với nỗi ngậm ngùi: “Sầu hận của tim ta ai biết được. Người tươi vui ta mãi mãi căm hờn”.
Và sau đó ông định cư tại thành phố Hampton tiểu bang Virginia, đến năm 1979 ông cùng gia đình di chuyển về California thành phố Baker Field cho đến cuối đời.
Trong khoảng thời gian từ 1976 đến những năm 1982 ông có tham dự vào một số sinh hoạt trong nỗ lực trở lại VN tổ chức lực lượng kháng chiến nhưng tiếc rằng Trời đã không chiều lòng người. Sau này ông lui dần vào im lặng và ít khi lên tiếng. Ông cũng thường sinh hoạt và gần gũi với Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam từ năm 1980.
Năm 1990 ông cùng Tướng James B.Vaught Hoa Kỳ dẫn đầu đoàn diễn hành của Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam trên đại lộ Constitution, Washington D.C cùng với các đơn vị Nhảy Dù của 32 quốc gia bạn, nhân ngày kỷ niệm 50 năm thành lập binh chủng Nhảy Dù Hoa Kỳ. Nhảy Dù là đơn vị của QLVNCH đầu tiên và duy nhất từ trước cho đến thời điểm nầy, được mời chính thức rước ngọn cờ Vàng ba sọc Đỏ giữa lòng thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Hai bên đường dân chúng Hoa Kỳ và đồng bào Việt Nam tỵ nạn Cộng Sản, đón tiếp và cổ võ nồng nhiệt.
Ngày 21/9/2005 Tướng Lê Quang Luỡng đã qua đời tại Bakefield California vì chứng bệnh Gan, thọ 73 tuổi, để lại nhiều luyến thương sâu xa cho đoàn quân Mũ Đỏ. Đến phút cuối, ông nhất định không cho phủ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ lên “quan tài của một bại tướng lưu vong”, ông cũng trăn trối không nhận vòng hoa đưa đám, chỉ nhận tiền mặt để gởi về quê nhà giúp các đàn em thương tật. Tinh thần Tổ Quốc – Danh Dự - Trách Nhiệm và “Huynh Đệ Chi Binh” của người Anh Cả Mũ Đỏ không ai có thể cao hơn thế được.
Võ Trung Tín - Nguyễn Hữu Viên
Năm 1965 Ông được đi du học về “Tác Chiến Trong Rừng Núi Sình Lầy” tại Mã Lai Á. Tại quân trường ông đã trình bày chiến thuật tấn công và tác chiến theo quan điểm của riêng ông được tất cả các Huấn luyện viên đều chú ý và thán phục. Đến tháng 9/1965, về nước với bằng tốt nghiệp Thủ Khoa, ông được Tướng Dư Quốc Đống chỉ định nhiệm vụ thành lập và giữ chức Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2ND tại Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Vạn Kiếp ở Bà Rịa. Trong buổi lể xuất quân của TĐ2ND vào tháng 1/1966, Đại Tá Lý Thái Như Chỉ Huy Trưởng TTHL/QG Vạn Kiếp đã Chủ Tọa và trao gắng cấp bậc Thiếu Tá cho Ông.
Sau buổi lể xuất quân, Tiểu Ðoàn 2 ND về trấn giữ vòng đai Biệt-Khu-Thủ-Ðô vừa chỉnh trang đơn vị, vừa tái huấn luyện tại chỗ. Chính ông đã đứng ra hướng dẩn tất cả Sĩ quan cũng như binh sĩ về chiến thuật và kỹ thuật tác chiến của Nhảy Dù và ngay sau đó TĐ2ND đã tham chiến tại khu phi chiến, tại đồi 1416 trên đỉnh Ngok Wank quân khu II, tại khắp các mặt trận ở các quân khu và đã từng gây kinh hoàng cho các đơn vị CS không thua bất cứ một đơn vị Nhảy Dù kỳ cựu nào khác.
Cuối năm 1967, ông sang Okinawa du khảo và học hỏi về Chiến thuật phản tình báo và chống chiến tranh du kích. Ngày 25/1/1968, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Lữ Ðoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù thay thế Trung Tá Hồ Trung Hậu, đánh đuổi quân Cộng Sản ra khỏi Huế và Quảng Trị trong trận chiến “Tổng Công Kích năm Mậu Thân” của CS. Sau trận nầy ông được thăng cấp Trung Tá tại mặt trận vào tháng 4/1968. Và cũng trong chức vụ LĐT/LĐIND ông được thăng cấp Ðại Tá tại mặt trận vào tháng 9/1969 sau các cuộc hành quân tại Tây Ninh để tiêu diệt các đơn vị CS lẩn khuất trong khu vực Chiến Khu C và đưa chiến trường ra khỏi lảnh thổ Quân Khu III qua bên kia biên giới.
Kể từ đây, ông đã tham gia hầu hết các cuộc hành quân làm nên lịch sử của SĐND, như là Chiến dịch Bình Tây Kampuchea 1970, Hành Quân Lam Sơn 719 trên đất Lào vào tháng 02 năm 1971, giải vây An Lộc tháng 4/1972, Hành Quân Lam Sơn 72 trong chiến dịch Lôi Phong tái chiếm Quảng Trị vào tháng 06 năm 1972, và cuộc hành quân tái chiếm Thường Đức vào tháng 08 năm 1974. Trong ba cuộc hành quân đầu, Tướng Lưỡng đã tham dự với tư cách Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, trong các cuộc hành quân về sau Tướng Lưỡng đã điều quân với tư cách là Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù.
Trong trận chiến giải vây An Lộc năm 1972, tài điều binh của ông đã được đưa vào chương trình nghiên huấn của Trường Quân Sự Command and General Staff College (Đại Học Chỉ Huy & Tham Mưu) ở Fort Leavenworth, tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ sau hai danh tướng Tôn Tử, một thiên tài quân sự nổi tiếng của Trung Hoa thời Xuân Thu Chiến Quốc (722 – 480 TCN) và Erwin Rommel (1891 – 1944 có biệt danh là "the Desert Fox") một tướng lảnh lừng danh của Đức Quốc Xả vào đệ nhị thế chiến.
Trong trận chiến nầy ông đã phối hợp chiến thuật phân tán mỏng các đơn vị Nhảy Dù để bao vây, dùng các Tổ Khinh Binh đột kích vào các chốt của CS rồi dùng Phi Pháo và Pháo Binh tiêu diệt địch để phá vở chiến thuật Chốt Kiềng của CS tại suối Tàu Ô cũng như tại cửa ngỏ Sóc Gòn của An Lộc.
Đại Tá Lê Quang Lưỡng đã áp dụng yếu tố bất ngờ một cách táo bạo và thành công khi đổ quân Nhảy Dù xuống Sóc Ton Cui cạnh Đồi Gió để làm đầu cầu, rồi tiến vào An Lộc. Ông cũng đã nghi binh đánh lạc hướng địch quân khi liên lạc bằng hệ thống âm thoại báo cho Tướng Hưng rằng ông sẽ không vào An Lộc mà ngày mai Quân Đoàn sẽ đưa một đại đơn vị nhảy xuống phía Bắc An Lộc tấn công vào Đồi Đồng Long vào giải cứu các đơn vị bị bao vây. Ông được Tướng Minh Tư Lịnh Quân Khu III đặt trọn niềm tin và giao cho Ông trọn quyền quyết định sách lược.
Với kinh nghiệm lão luyên trên chiến trường của một “Quân Đội con nhà nghèo” với sự yểm trợ tích cực của người bạn đồng minh, ông đã sử dụng tài tình và hiệu quả lối đánh thần tốc của các Chiến Binh Nhảy Dù với hỏa lực vô tiền khoáng hậu của phi pháo và các pháo đài bay B52 để tiêu diệt các đơn vị CS, để giải vây cho các đơn vị thuộc quyền, để mở rộng vòng đai và rồi hoàn toàn giải tỏa An Lộc.
Tháng 6 năm 1972, Đại Tá Lê Quang Lưỡng được đề cử chức vụ Phụ-Tá hành-quân cho Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù là Trung Tướng Dư Quốc Đống trong chiến dịch Lôi Phong tái chiếm Quảng Tri. Cuối tháng 8 năm 1972, ông được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thăng cấp Chuẩn Tướng, và sau đó ông được bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Phó, xử lý thường vụ chức vụ Tư Lệnh SĐND. Lúc bấy giờ Bộ Tư Lệnh Hành Quân Sư Đoàn Nhảy Dù đặt tại căn cứ Hiệp Khánh, cách Huế 17 km về phía Bắc.
Tháng 11 năm 1972, Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng chính thức được chỉ định làm Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù cũng là vào lúc VNCH đang đi vào một giai đoạn cực kỳ khó khăn nhất trong lịch sử. Sư Đoàn Nhảy Dù do ông chỉ huy đã phải đương đầu với bao nhiêu thử thách từ phía Cộng quân cũng như từ phía Đồng Minh và nội bộ của VNCH. Nhưng ông luôn giữ đúng phong cách của một vị chỉ huy, thi hành trách nhiệm được giao phó một cách hoàn hảo và suốt đời tận tụy hy sinh cho tổ quốc đến những ngày cuối tháng 4/1975.
Trận đánh để đời sau cùng của ông là trận Thường Đức từ tháng 8/1974 đến tháng 11/1974 ông đã áp dụng chiến thuật Xa Luân Chiến để 3 Lữ Đoàn Nhảy Dù luân phiên giao tranh và gây thiệt hại nặng nề cho hai SĐ324B, SĐ304 và một Trung Đoàn của SĐ2CSBV cùng các lực lượng địa phương.
Năm 1975 vào những ngày tháng lịch sử của VNCH, lệnh từ trung ương bỏ quân Đoàn I và rút Sư Đoàn Nhảy Dù về Sài Gòn. Một tin chấn động cho toàn quân, toàn dân và sự kinh hoàng tột độ ấy đã mở đầu cho sự tan rã ồ ạt sau đó.
Hơn thế nữa, kể từ ngày SĐND được bốc khỏi Vùng I, quyền chỉ huy chiến thuật binh chủng Nhảy Dù, quyền xử dụng các chiến binh Nhảy Dù cũng vượt ra khỏi tầm tay của vị Tư Lệnh. Các đơn vị Nhảy Dù đã bị xé ra từng mảnh. Mỗi đơn vị một nơi rồi lần lượt bị tan hàng.
Ngày 29 tháng 4 năm 1975 Tướng Lưỡng di tản sang Hoa Kỳ, với nỗi ngậm ngùi: “Sầu hận của tim ta ai biết được. Người tươi vui ta mãi mãi căm hờn”.
Và sau đó ông định cư tại thành phố Hampton tiểu bang Virginia, đến năm 1979 ông cùng gia đình di chuyển về California thành phố Baker Field cho đến cuối đời.
Trong khoảng thời gian từ 1976 đến những năm 1982 ông có tham dự vào một số sinh hoạt trong nỗ lực trở lại VN tổ chức lực lượng kháng chiến nhưng tiếc rằng Trời đã không chiều lòng người. Sau này ông lui dần vào im lặng và ít khi lên tiếng. Ông cũng thường sinh hoạt và gần gũi với Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam từ năm 1980.
Năm 1990 ông cùng Tướng James B.Vaught Hoa Kỳ dẫn đầu đoàn diễn hành của Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam trên đại lộ Constitution, Washington D.C cùng với các đơn vị Nhảy Dù của 32 quốc gia bạn, nhân ngày kỷ niệm 50 năm thành lập binh chủng Nhảy Dù Hoa Kỳ. Nhảy Dù là đơn vị của QLVNCH đầu tiên và duy nhất từ trước cho đến thời điểm nầy, được mời chính thức rước ngọn cờ Vàng ba sọc Đỏ giữa lòng thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Hai bên đường dân chúng Hoa Kỳ và đồng bào Việt Nam tỵ nạn Cộng Sản, đón tiếp và cổ võ nồng nhiệt.
Ngày 21/9/2005 Tướng Lê Quang Luỡng đã qua đời tại Bakefield California vì chứng bệnh Gan, thọ 73 tuổi, để lại nhiều luyến thương sâu xa cho đoàn quân Mũ Đỏ. Đến phút cuối, ông nhất định không cho phủ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ lên “quan tài của một bại tướng lưu vong”, ông cũng trăn trối không nhận vòng hoa đưa đám, chỉ nhận tiền mặt để gởi về quê nhà giúp các đàn em thương tật. Tinh thần Tổ Quốc – Danh Dự - Trách Nhiệm và “Huynh Đệ Chi Binh” của người Anh Cả Mũ Đỏ không ai có thể cao hơn thế được.
Võ Trung Tín - Nguyễn Hữu Viên
Subscribe to:
Posts (Atom)